CHUYÊN ĐỀ 1
TỘI PHẠM HÓA VÀ PHI TỘI PHẠM HÓA,
HÌNH SỰ HÓA VÀ PHI HÌNH SỰ HÓA TRONG
MỘT SỐ TỘI PHẠM KINH TẾ TRONG LUẬT SỬA ĐỔI,
BỔ SUNG NĂM 2009
1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
Gần 10 năm qua, Bộ luật hình sự 1999 đã đi vào cuộc sống, phát huy những hiệu quả tích cực trong cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, 10 năm qua cũng đã có những biến đổi trong một số quan hệ xã hội làm nảy sinh nhu cầu tất yếu phải điều chỉnh. Xã hội là một thực thể sống, trong nội hàm của nó đã buộc phải có tính tổ chức, có sự điều chỉnh. Điều chỉnh xã hội là do bản thân nhu cầu xã hội để chấn chỉnh các góc độ xã hội, đó là một tất yếu, một quy luật, một thuộc tính của mọi xã hội nhằm đảm bảo sự ổn định xã hội. Chính vì vậy, ngày 19-6-2009 Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự 1999 nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo hướng bổ sung, sửa đổi một số mối quan hệ xã hội trong lĩnh vực hình sự. Trong vấn đề tội phạm hóa, phi tội phạm hóa và vấn đề hình sự hóa, phi hình sự hóa trong một số tội phạm kinh tế là một vấn đề rất quan trọng. Cùng ngày, Quốc hội cũng đã ban hành Nghị quyết số 33/2009/QH 12 về việc thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự (sau đây xin gọi chung là Nghị quyết số 33).
1.1. Tội phạm là gì ?
Tội phạm là một hiện tượng xã hội mang tính chất hình sự - pháp lý, có nguồn gốc và nguyên nhân từ xã hội. Mặt khác, tội phạm là một phạm trù lịch sử, nó gắn liền với Nhà nước và giai cấp. Khái niệm tội phạm cũng luôn vận động và biến động cùng với những vận động của xã hội. Nghiên cứu hành vi phạm tội là nghiên cứu những hành vi mang tính cá biệt, phản xã hội của con người. Người ta có thể tiếp cận vấn đề tội phạm từ nhiều góc độ khác nhau của các ngành khoa học khác nhau.
Theo Bộ luật hình sự Việt Nam “ Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa” (Điều 8 BLHS 1999 SĐ, BS năm 2009).
1.2. Tội phạm kinh tế là gì ?
Khái niệm “tội phạm kinh tế” không phải là một phạm trù pháp lý. Tùy theo mục đích nghiên cứu mà thuật ngữ “tội phạm kinh tế” được hiểu ở các phạm vi rộng hẹp khác nhau.
Trong chuyên đề này, các tội phạm kinh tế được hiểu là “những tội phạm có tính chất kinh tế xảy ra trong hoạt động kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp cũng như các hành vi phạm tội vì mục đích kinh tế”.
1.3. Tội phạm hóa và phi tội phạm hóa
1.3.1. Tội phạm hóa
Một số quan hệ xã hội trước đây không được điều chỉnh bằng pháp luật hình sự, nhưng đến nay dưới "con mắt" của Nhà nước thì các mối quan hệ đó phải được pháp luật hình sự điều chỉnh. Những hành vi mà Nhà nước xác định là nguy hiểm cho xã hội trở thành một tội phạm và được quy định trong Bộ luật hình sự và đương nhiên tùy theo tính chất, mức độ (tính nguy hiểm của hành vi) mà xác định các chế tài phù hợp, tức là xác định loại hình phạt, điều kiện quyết định hình phạt đối với loại tội phạm này hay tội phạm khác là quá trình tội phạm hóa.
=> Tội phạm hóa là việc ghi nhận trong pháp luật hình sự một hành vi nào đó là tội phạm (mà trước đây chưa được pháp luật hình sự coi là tội phạm) và quy định trách nhiệm hình sự đối với việc thực hiện hành vi đó.
Một số hành vi trước đây không coi là tội phạm, không được quy định trong Bộ luật hình sự thì nay đã được coi là tội phạm và quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự, đó là các tội: Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 170a), Tội thao túng giá chứng khoán (Điều 181c),…
1.3.2. Phi tội phạm hóa
Phi tội phạm hóa là việc loại trừ khỏi pháp luật hình sự hiện hành một hành vi nào đó (mà trước đây đã bị coi là tội phạm) và hủy bỏ trách nhiệm hình sự đối với việc thực hiện hành vi đó.
Chẳng hạn, từ ngày 29-6-2009, các hành vi sau đây không còn là tội phạm, tức là các hành vi này không còn nguy hiểm cho xã hội tới mức phải sử dụng các biện pháp hình sự mà chỉ cần điều chỉnh bằng các biện pháp khác như: Các hành vi xâm phạm quyền tác giả (Điều 131) hay các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171), trừ hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý.
1.4. Hình sự hóa và phi hình sự hóa
1.4.1. Hình sự hóa
Theo quan điểm của một bộ phận lớn học giả, luật sư, sinh viên luật: “Hình sự hóa là việc sử dụng các quan hệ pháp luật hình sự để giải quyết các quan hệ dân sự”. Theo cách hiểu này, bản chất của hình sự hóa là việc bẻ lái phương hướng áp dụng pháp luật.
Theo quan điểm của GS.TSKH Đào Trí Úc: “Hình sự hóa (penalisation) chính là việc quy định hình phạt, khung hình phạt, điều kiện áp dụng hình phạt này đối với tội phạm này hay tội phạm khác được quy định trong Bộ luật hình sự”. Như vậy, hình sự hóa chỉ diễn ra ở giai đoạn xây dựng pháp luật chứ không thể diễn ra ở giai đoạn áp dụng pháp luật.
Hình sự hóa còn có nghĩa là khi bổ sung vào một điều luật hình sự nào đó các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tăng nặng hơn mức độ hình phạt tù hoặc áp dụng các hình phạt khác (các hình phạt chính, hình phạt bổ sung) nặng hơn, mở rộng hơn về đối tượng phạm tội, đưa thêm vào cấu thành cơ bản những yếu tố định tội, giảm bớt định lượng trong cấu thành cơ bản… Do đó, tội phạm hóa là một trong những thể hiện cụ thể của quá trình hình sự hóa.
Chẳng hạn, theo Điều 160: Tội đầu cơ, trong cấu thành cơ bản đã quy định thêm tình tiết "hoặc tình hình khó khăn về kinh tế" và nâng mức hình phạt tiền từ "năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng" lên "từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng".
1.4.2. Phi hình sự hóa
Phi hình sự hóa là việc bỏ đi những quy định hoặc một số quy định chung làm tăng trách nhiệm hình sự của người phạm tội, bỏ loại hình phạt, bỏ đi các tình tiết định tội, định khung hình phạt đối với một hoặc một số loại tội phạm đã được quy định trong Bộ luật hình sự.
Theo khoản 2 Điều 1 Nghị quyết 33, kể từ ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự được công bố, tức là ngày 29-6-2009 thì: Khi xét xử sơ thẩm, phúc thẩm không áp dụng hình phạt tử hình đối với những người phạm tội (không phân biệt hành vi phạm tội thực hiện trước hay sau ngày 29-6-2009): làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả (khoản 3 Điều 180),..
Như vậy, quá trình hình sự hóa, tội phạm hóa là một quá trình ngược lại của quá trình phi hình sự hóa, phi tội phạm hóa. Quá trình này thể hiện việc điều chỉnh pháp luật hay cũng là thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước cho phù hợp với sự phát triển của các mối quan hệ xã hội.
1.5. Ý nghĩa
Theo lý thuyết về tội phạm, xét về dấu hiệu nội dung thì tội phạm phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm luôn chịu sự chi phối của các điều kiện khách quan. Sự vận động của xã hội, sự phát triển của các điều kiện về kinh tế, chính trị xã hội kéo theo sự thay đổi tính nguy hiểm của hành vi phạm tội. Khi tính nguy hiểm của hành vi phạm tội thay đổi thì việc áp dụng chế tài đối với hành vi đó cũng cần thay đổi theo. Vì vậy, việc đưa vào Bộ luật hình sự hành vi nguy hiểm cho xã hội (tội phạm hóa, hình sự hóa) hay ra khỏi Bộ luật hình sự hành vi không còn nguy hiểm (phi tội phạm hóa, phi hình sự hóa) là cần thiết.
Thực tiễn xã hội, lịch sử của việc đấu tranh phòng và chống tội phạm cho thấy, hiệu quả của các quy phạm pháp luật hình sự đạt được không phải là bằng sự mở rộng phạm vi áp dụng hoặc tăng nặng hình phạt mà phải bằng việc phân hóa tối đa trách nhiệm hình sự và đảm bảo hoàn toàn nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm hình sự. Vì vậy, trong những điều kiện đầy phức tạp của nền kinh tế thị trường do sự tăng lên về số lượng của việc tội phạm hóa những hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhà nước thường bị thiệt hại không những về tinh thần, mà phần đáng kể hơn là về vật chất, khi một bộ phận lớn công dân bị loại ra khỏi lĩnh vực sản xuất ra của cải cho xã hội và nhà nước phải bỏ ra các chi phí giáo dục, cải tạo những người bị kết án trong các nhà tù. Do đó, không phải ngẫu nhiên, khi chứng minh sự giảm nhẹ sự trấn áp về hình sự đối với những người phạm tội cũng như của việc kết hợp điều này với nguyên tắc nhân đạo, tính nhân văn và của cải của xã hội. Đây là quan niệm đúng đắn, thể hiện sự cần thiết và vai trò quan trọng của việc tội phạm hóa, hình sự hóa và phi tội phạm hóa, phi hình sự hóa trong pháp luật hình sự.
2. NỘI DUNG TỘI PHẠM HÓA VÀ PHI TỘI PHẠM HÓA, HÌNH SỰ HÓA VÀ PHI HÌNH SỰ HÓA TRONG MỘT SỐ TỘI PHẠM KINH TẾ TRONG LUẬT SỬA ĐỔI 2009
Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã thể chế hóa chính sách về tội phạm, hình phạt qua việc cân nhắc, đánh giá về mặt pháp luật các hành vi nguy hiểm xảy ra một cách khách quan trong xã hội thong qua quá trình tội phạm hóa và phi tội phạm hóa, hình sự hóa và phi hình sự hóa ở phần các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Những nội dung sửa đổi, hoàn thiện đã thể hiện quy định trong Bộ luật Hình sự hiện hành về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế không chỉ đáp ứng yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh chống loại tội phạm này mà còn tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
2.1. Nội dung tội phạm hóa và phi tội phạm hóa
2.1.1. Tội phạm hóa
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1999, đã tội phạm hóa một số hành vi trong lĩnh vực kinh tế, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế trong giai đoạn này. Thực tiễn áp dụng Bộ luật Hình sự cho thấy, một số hành vi vi phạm pháp luật đang phát triển rất nguy hiểm cho xã hội, có nơi, có lúc diễn biến phức tạp nhưng chưa được quy định trong Bộ luật Hình sự là tội phạm – tức chưa được tội phạm hóa kịp thời. Vì vậy, xuất phát từ tình hình thực tế, sau khi xem xét các yếu tố, đặc điểm phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, truyền thống pháp lý Việt Nam cũng như các yếu tố quốc tế, xu thế chung của thế giới trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, Luật sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã quy định một số tội phạm mới trong chương XVI tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế về lĩnh vực tài chính – kế toán, chứng khoán,… Điển hình là:
Điều 164a: Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
Điều 164b: Tội vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
Điều 170a: Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan
Điều 181a: Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán
Điều 181b: Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán
Điều 181c: Tội thao túng giá chứng khoán
Tội phạm môi trường:
Điều 182a: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hiểm
Điều 182b: Tội vi phạm quy định về phòng ngừa sự cố môi trường
Điều 185: Tội đưa chất thải vào lãnh thỏ Việt Nam
Điều 191: Tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên
Điều 191a: Tội nhập khẩu, phát tán các loại ngoại lai xâm hại
Chẳng hạn, trong luật sửa đổi, bổ sung đã sửa đổi Tội đầu cơ (Điều 160) theo hướng mở rộng khả năng để có thể xử lý về hình sự đối với những hành vi đầu cơ xảy ra trong thời gian vừa qua nhằm góp phần ổn định thị trường. Theo quy định tại Điều 160 BLHS 1999 thì tội đầu cơ được hiểu với phạm vi rất hẹp. Theo đó, chỉ bị xử lý về tội này khi hành vi được thực hiện “trong tình hình thiên tai, dịch bệnh và chiến tranh”. Chính vì vậy, để đấu tranh ngăn chặn hành vi đầu cơ, góp phần bình ổn thị trường, giá cả, Luật sửa đổi, bổ sung đã quy định bổ sung dấu hiệu “trong tình hình có khó khăn về kinh tế”. Như vậy, hành vi đầu cơ trong tình hình khó khăn về kinh tế có thể cấu thành tội phạm này nếu thỏa mãn các dấu hiệu định tội khác.
2.1.2. Phi tội phạm hóa
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2009 đã tiếp tục sửa đổi, bổ sung một số điều ở chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nhằm góp phần tháo gỡ phần nào những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng bằng quá trình phi tội phạm hóa thể hiện qua việc xóa bỏ điểm c khoản 2 Điều 171: Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và Tội đàu cơ (Điều 160). Tội phạm môi trường về Tội gây ô nhiễm nguồn nước (Điều 183) và Tội gây ô nhiễm đất (Điều 184).
2.2. Nội dung hình sự hóa và phi hình sự hóa
2.2.1. Hình sự hóa
Hình sự hóa là quá trình diễn ra song song với quá trình tội phạm hóa do xuất phát từ mối quan hệ không thể tách rời giữa tội phạm và hình phạt. Nghiên cứu quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2009 cho thấy nội dung hình sự hóa thể hiện ở Điều 161, Điều 164a, Điều 164b, 170a, Điều 171, Điều 174, 181a, 181b, 181c và tội phạm môi trường như Điều 182a, Điều 182b, Điều 191a. Hình sự hóa trong những trường hợp này thể hiện tính tất yếu trong lập pháp hình sự về mối quan hệ giữa tội phạm và hình phạt. Tính chịu hình phạt luôn luôn là thuộc tính của tội phạm, thể hiện bằng việc Nhà nước đe dọa áp dụng hình phạt đối với người thực hiện hành vi bị coi là tội phạm. Vì vậy, khi nhà làm luật quy định bổ sung những hành vi phạm tội mới vào Bộ luật Hình sự thì đồng thời phải dự liệu chế tài (hình phạt) tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
2.2.2. Phi hình sự hóa
Quá trình hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam nói chung, hoàn thiện các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói riêng luôn quán triệt quan điểm nhân đạo xã hội chủ nghĩa mà thể hiện tập trung nhất là ở những quy định về hình phạt.Trong đấu tranh phòng chống tội phạm, hình phạt được áp dụng không chỉ nhằm trừng trị mà còn nhằm mục đích cảm hóa, giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội. Trên tinh thần đó, những năm gần đây trong chính sách hình sự của chúng ta đã thể hiện đường lối xử lý đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế có nhiều thay đổi theo hướng giảm bớt các hình phạt nghiêm khắc như tử hình.
Năm 2009, xuất phát từ thực tiễn đấu tranh với các loại tội phạm kinh tế cũng như đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay, Luật sửa đổi, bổ sung đã sửa đổi theo hướng ngày càng nhân đạo, đó là bỏ quy định hình phạt tử hình đối với một số tội phạm, trong đó có tội buôn lậu (Điều 153) và tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả (Điều 180). Như vậy, từng bước hạn chế phạm vi áp dụng hình phạt tử hình, giảm tối đa quy định hình phạt tử hình đối với các tội trong chương xâm phạm trật tự quản lý kinh tế phù hợp với xu hướng chung của thế giới hiện nay.
3. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH
Sau gần 16 năm thi hành, BLHS năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009), đặc biệt là sự phát triển của Hiến pháp năm 2013 về việc ghi nhận và đảm bảo thực hiện các quyền con người, quyền công dân đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cả hệ thống pháp luật đã có những tác động tích cực đối với công tác phòng, chống tội phạm, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân. Việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN mà nội dung cơ bản là ghi nhận và bảo đảm thực hiện các quyền con người, quyền cơ bản của công dân; chiến lược hoàn thiện hệ thống pháp luật, chiến lược cải cách tư pháp và chủ động hội nhập quốc tế của Việt Nam đã mang lại những chuyển biến lớn, tích cực về kinh tế - xã hội và đối ngoại của đất nước. Bên cạnh đó, tình hình tội phạm nhìn chung vẫn diễn biến hết sức phức tạp với những phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Số lượng tội phạm luôn có xu hướng gia tăng, nghiêm trọng hơn cả về quy mô và tính chất, nhất là trong các lĩnh vực kinh tế, môi trường. Điều này đã làm cho BLHS hiện hành trở nên bất cập không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Ngày nay, xu thế chủ động hội nhập quốc tế đã trở thành nhu cầu nội tại của Việt Nam. Trên thực tế, nước ta đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực và đã trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế đa phương, trong đó có các công ước về phòng chống tội phạm, ... Bên cạnh đó, cùng với quá trình hội nhập quốc tế, nước ta cũng đang phải đối mặt với sự gia tăng của các loại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, các tội phạm do người nước ngoài thực hiện. Điều này, đòi hỏi phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung BLHS để nội luật hóa các quy định về hình sự trong các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên nhằm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của quốc gia thành viên và tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc chủ động và tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm, đặc biệt là các tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.
CHUYÊN ĐỀ 2
NHỮNG SỬA ĐỔI CỤ THỂ ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM VỀ KINH TẾ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 (SỬA ĐỔI BỔ SUNG NĂM 2017)
1. Một số vấn đề lý luận chung về các tội phạm kinh tế
1.1. Khái niệm tội phạm kinh tế
Quản lý hoạt động kinh tế nhằm mục đích sản xuất nhiều hàng hóa, tạo điều kiện phát triển xã hội, đồng thời điều chỉnh cá c hoạt động kinh tế theo trật tự của giai cấp thống trị là đòi hỏi khách quan của bất kỳ nhà nước nào. Vì thế, trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước ta luôn đề ra chủ trương, chính sách nhằm phát triển nền kinh tế phù hợp với điều kiện của nước ta cũng như xu thế chung của thế giới. Tuy nhiên, khi nước ta đang trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như hiện nay cũng sẽ gặp không ít những khó khăn, trở ngại khi tình hình các tội phạm về kinh tế đã và đang diễn ra ngày càng nhiều với thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo nguyệt gây ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, ảnh hưởng đến trật tự xã hội, là rào cản để nước ta gia nhập kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đặc biệt là gây thiệt hại, ảnh hưởng đến lợi ích của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức và các cá nhân khác.
Vì vậy, trước tình hình các tội phạm kinh tế diễn ra như hiện nay, vai trò bảo vệ trật tự quản lý kinh tế của nhà nước là đòi hỏi, tất yếu khách quan và vai trò này thuộc về Luật hình sự bằng cách quy định tội phạm và hình phạt áp dụng đối với người có hành vi xâm hại đến trật tự quản lý kinh tế. Việc quy định các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế phải hướng đến mục đích thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh và hạn chế tiêu cực trong hoạt động kinh tế[1].
Để hiểu rõ khái niệm về tội phạm kinh tế, trước hết chúng ta cần tìm hiểu khái niệm về “tội phạm”. Dưới góc độ lý luận khoa học pháp lý hình sự, có thể hiểu tội phạm là một hiện tượng tiêu cực nhất trong xã hội, đồng thời là “một hiện tượng xã hội - pháp lý gắn liền với sự ra đời của nhà nước và pháp luật, cũng như với sự xuất hiện của sở hữu tư nhân và sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng”[2]. Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì khái niệm tội phạm được quy định rất rõ ràng, theo đó: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự[3].
Như vậy, từ những phân tích như trên, trung tựu lại có thể hiểu rằng: “Tội phạm kinh tế đây là một trong những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các chế độ, chính sách quản lý kinh tế của nhà nước, gây thiệt hại cho nền kinh tế quốc dân, lợi ích hợp pháp của tổ chức và của công dân[4]”.
1.2. Phân loại tội phạm kinh tế
Theo quy định của BLHS hiện hành, các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế được quy định tại chương XVI bao gồm 28 điều luật (từ Điều 153 đến Điều 181). Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế được qui định tại chương này là sự kế thừa chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta đối với hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của nhà nước, đồng thời phản ánh kết quả phát triển của nền kinh tế quốc dân trong giai đoạn cải cách, đổi mới hiện nay[5]. Sau hơn 14 năm thi hành, BLHS năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã có những tác động tích cực đối với công tác phòng, chống tội phạm, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa.
Và hơn hết, quy định về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo vệ trật tự kinh tế trong sản xuất, kinh doanh, thể hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong việc đấu tranh chống loại tội phạm này. Tuy nhiên, bên cạnh đó trước sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, những quy định của BLHS hiện hành bộc lộ rõ những hạn chế nhất định. Trước tình hình này, đòi hỏi quy định về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế cần phải được hoàn thiện nhằm kịp thời điều chỉnh các hành vi phát sinh trên thực tế và đảm bảo phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước qua từng thời kỳ. Chính vì vậy BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có những sửa đổi, bổ sung cơ bản đối với loại tội phạm này. Theo đó, các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế được quy định tại chương XVIII với kết cấu bao gồm ba mục cụ thể được phân theo từng lĩnh vực kinh tế. Cụ thể như sau:
1.2.1. Các tội phạm trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại
So với BLHS hiện hành thì BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) các tội phạm này được phân biệt rõ ràng, rành mạch cụ thể từng tội một thuộc lĩnh vực kinh tế nào. Đối với các tội phạm trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại được quy định từ Điều 188 đến Điều 199 của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Các tội phạm được quy định tại mục này chủ yếu thuộc các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại như: sản xuất, buôn bán hàng giả hay tàng trữ, vận chuyển hàng cấm.
Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã tách một sô tội từ quy định của BLHS hiện hành ra thành các tội phạm độc lập thuộc lĩnh vực này. Cụ thể, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) tách tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh tại Điều 157 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thành hai tội danh độc lập là : Tội sản xuất buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm (Điều 193) và Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, phòng bệnh (Điều 194). Tách tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm tại Điều 155 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thành hai tội danh mới là tội sản xuất, buôn bán hàng cấm (Điều 190) và tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm (Điều 191).
Ngoài ra, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã bỏ đi tội kinh doanh trái phép (Điều 159) và tội báo sai trong quản lý kinh tế (Điều 167) của BLHS hiện hành. Hơn nữa đối với các tội phạm được quy định ở lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại thì BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cũng quy định xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại đối với các tội phạm thuộc mục này như: Tội buôn lậu (Điều 188); Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới (Điều 189); Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm (Điều 190); Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm (Điều 191); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 192); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm (Điều 193); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, phòng bệnh (Điều 194); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều 195); Tội đầu cơ (Điều 196)[6]. Ngoài ra, so với quy định của BLHS hiện hành thì hình phạt tiền được quy định là hình phạt chính đối với các tội phạm thuộc lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và thương mại. Khi áp dụng hình phạt tiền vẫn có thể xử lý được tội phạm và thực hiện chủ trương giảm hình phạt tù.
Ví dụ: Đối với tội lừa dối khách hàng BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
d) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên[7]”.
1.2.2. Các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính, ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm
Tội phạm đối với các lĩnh vực này được quy định từ Điều 200 đến Điều 216 của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Những tội phạm này có một số thay đổi cơ bản về các dấu hiệu định tội và bổ sung quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại ở một số tội phạm.
Ví dụ: Quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại ở các tội: Tội trốn thuế (Điều 200); Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ nộp ngân sách nhà nước (Điều 203); Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che dấu thông tin trong hoạt động chứng khoán (Điều 209); Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán (Điều 210); Tội thao túng thị trường chứng khoán (Điều 211); Tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm (Điều 213); Tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động (Điều 216).
Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) bổ sung thêm một tội danh trong lĩnh vực chứng khoán: Tội làm giả tài liệu trong hồ sơ chào bán, niêm yết chứng khoán (Điều 212) nhằm bảo đảm BLHS bao quát được hết những hành vi nguy hiểm cho xã hội trong lĩnh vực chứng khoán, bởi vì việc làm giả tài liệu trong hồ sơ chào bán, niêm yết chứng khoán đã xảy ra khá phổ biến trong thời gian qua nhưng chế tài hành chính không đủ sức răn đe, trong khi đó thị trường chứng khoán là thị trường tương đối nhạy cảm, có ảnh hưởng lớn tới sự ổn định, phát triển của nền kinh tế đất nước.
Đối với việc bổ sung một số tội danh mới trong lĩnh vực bảo hiểm, chúng ta thấy rằng, Luật bảo hiểm xã hội đã xác định các hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội và quy định những chế tài xử lý hành chính đối với những hành vi vi phạm này. Tuy nhiên, thực trạng vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội trong những năm gần đây có chiều hướng gia tăng, ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi của người lao động. Một vấn đề nổi cộm vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là tình trạng chậm đóng, nợ đọng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động ngày càng gia tăng với số tiền lớn xảy ra ở hầu hết các tỉnh, thành trên cả nước, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của hàng trăm nghìn người lao động, dẫn đến việc họ không được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế kịp thời.
Bên cạnh đó, trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm thì tình trạng lợi dụng kẽ hở của pháp luật và thực tiễn kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm cũng xuất hiện ngày càng phổ biến. Qua thực tiễn, vi phạm xảy ra ở hầu hết các lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, nhưng tập trung nhiều vào hai lĩnh vực chủ yếu là bảo hiểm phi nhân thọ (bảo hiểm sức khỏe và tai nạn con người, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm hàng hóa...) và bảo hiểm nhân thọ[8].
Mặc dù có thể vận dụng một số quy định của BLHS để xử lý đối với hành vi gian lận bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội và hành vi trục lợi trong kinh doanh bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, do lĩnh vực bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội và kinh doanh bảo hiểm có những đặc thù. Việc gian lận, trục lợi trong lĩnh vực này có tính chất tương đối phổ biến, không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền và lợi ích chính đáng của người lao động, người tham gia bảo hiểm mà còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho sự ổn định và phát triển của chính sách an sinh xã hội, ảnh hưởng đến chính sách thu hút đầu tư để phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước. Hơn nữa, quyền được bảo đảm an sinh xã hội là một trong những quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp năm 2013 khẳng định (Điều 34). Do vậy, BLHS năm 2015 đã bổ sung 04 tội danh liên quan đến lĩnh vực này, đó là tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm (Điều 213); tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp (Điều 214); tội gian lận bảo hiểm y tế (Điều 215) và tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động (Điều 216).
1.2.3. Các tội phạm khác xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Các tội phạm khác xâm phạm trật tự quản lý kinh tế được quy định từ Điều 217 đến điều 234 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). So với BLHS hiện hành, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã bỏ đi hai tội danh: Tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Điều 167) và tội sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng (Điều 178) BLHS hiện hành. Và thay thế cho tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng bằng một số tội: Tội vi phạm quy định về cạnh tranh (Điều 217); Tội vi phạm quy định về hoạt động bán đấu giá tài sản (Điều 218); Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản của Nhà nước gây thất thoát, lãng phí (Điều 219); Tội vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 220); Tội vi phạm quy định của Nhà nước về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 221); Tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 222); Tội thông đồng, bao che cho người nộp thuế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 223); Tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 224); Tội vi phạm quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (Điều 230).
Bên cạnh đó, các tội phạm khác xâm phạm trật tự quản lý kinh tế cũng tương tự như các tội phạm trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại, thuế, chứng khoán, bảo hiểm… Quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại đối với các tội như: Tội vi phạm quy định về cạnh tranh (Điều 217); Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 225); Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 226); Tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên (Điều 227); Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản (Điều 232); Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã (Điều 234).
1.3. Mục đích và lý do của việc sửa đổi, bổ sung những quy định về các tội phạm kinh tế trong Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017
1.3.1. Mục đích sửa đổi, bổ sung
Bộ luật hình sự (BLHS) hiện hành được Quốc hội khóa X thông qua ngày 21/12/1999 trên cơ sở kế thừa truyền thống của pháp luật hình sự Việt Nam, phát huy thành tựu của BLHS năm 1985 (đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997). Sau hơn 14 năm thi hành, BLHS năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã có những tác động tích cực đối với công tác phòng, chống tội phạm, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân, thể hiện trên một số điểm lớn như sau:
Thứ nhất: Thể hiện được tinh thần chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Tạo cơ sở pháp lý góp phần nâng cao hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, đặc biệt là các tội xâm phạm an ninh quốc gia; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; tội phạm về kinh tế, ma túy và tội phạm tham nhũng... qua đó góp phần kiểm soát và kìm chế tình hình tội phạm, bảo đảm ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ hai, BLHS đã có nhiều quy định thể hiện tinh thần nhân đạo, chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước ta trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, cụ thể như quy định về khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại đã gây ra; về các trường hợp loại trừ hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; về miễn trách nhiệm hình sự, miễn giảm hình phạt… Đặc biệt, BLHS đã quy định chặt chẽ hơn các điều kiện áp dụng hình phạt tử hình; mở rộng diện đối tượng không áp dụng, không thi hành hình phạt tử hình và thu hẹp các tội danh có quy định hình phạt tử hình. Các quy định này đã góp phần bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân, nâng cao vai trò giáo dục, cảm hóa đối với người phạm tội, đồng thời giáo dục người dân ý thức tuân thủ pháp luật, chủ động phòng ngừa tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ ba, BLHS có những quy định phù hợp với xu hướng chung của quốc tế, tạo tiền đề quan trọng cho việc tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhất là các tội phạm mang tính quốc tế, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia như tội phạm về ma túy, mua bán người, rửa tiền, khủng bố, tài trợ khủng bố; các tội phạm trong lĩnh vực công nghệ cao… qua đó, góp phần vào việc thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về hội nhập quốc tế.
1.3.2. Lý do cần thiết phải sửa đổi, bổ sung
Kể từ sau khi BLHS năm 1999 được ban hành, tình hình đất nước ta đã có những thay đổi to lớn về mọi mặt. Việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN mà nội dung cơ bản là ghi nhận và bảo đảm thực hiện các quyền con người, quyền cơ bản của công dân; chiến lược hoàn thiện hệ thống pháp luật, chiến lược cải cách tư pháp và chủ động hội nhập quốc tế của Việt Nam đã mang lại những chuyển biến lớn, tích cực về kinh tế - xã hội và đối ngoại của đất nước.
Bên cạnh đó, tình hình tội phạm nhìn chung vẫn diễn biến hết sức phức tạp với những phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Số lượng tội phạm luôn có xu hướng gia tăng, nghiêm trọng hơn cả về quy mô và tính chất, nhất là trong các lĩnh vực kinh tế, môi trường. Điều này đã làm cho BLHS hiện hành trở nên bất cập không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Mặc dù, năm 2009, Quốc hội khoá XII đã sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS, nhưng do phạm vi sửa đổi chỉ giới hạn trong một số điều, nên chưa thể khắc phục được đầy đủ, toàn diện những bất cập của BLHS trong thực tiễn. Những bất cập, hạn chế của BLHS hiện hành được thể hiện ở một số điểm chủ yếu như sau:
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng định hướng XHCN của nước ta đã có những bước phát triển quan trọng, từng bước hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và đã mang lại những lợi ích to lớn, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết, trong đó có vấn đề đấu tranh phòng chống tội phạm. Cùng với các luật khác trong hệ thống pháp luật nước ta, BLHS phải thể hiện đúng vai trò là công cụ hữu hiệu để bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, BLHS hiện hành nhìn chung vẫn là sản phẩm mang đậm dấu ấn của thời kỳ đầu của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, do vậy, chưa thực sự phát huy tác dụng trong việc bảo vệ và thúc đẩy các nhân tố tích cực của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển một cách lành mạnh. Một số quy định của Bộ luật tỏ ra không còn phù hợp với điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường. Mặt khác, nhiều tội phạm mới phát sinh trong quá trình vận hành nền kinh tế chưa được kịp thời bổ sung hoặc tuy đã được bổ sung, nhưng chưa đầy đủ, toàn diện, nhất là các tội phạm trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, thương mại, tài chính, ngân hàng, thuế, bảo hiểm, chứng khoán, tội phạm trong lĩnh vực môi trường,… Những hạn chế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của nền kinh tế cũng như hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và đòi hỏi cần phải tiếp tục hoàn thiện BLHS để góp phần bảo vệ và thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Thứ hai, do ban hành từ năm 1999, nên BLHS chưa thể chế hoá được những quan điểm, chủ trương mới của Đảng về cải cách tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới (Nghị quyết số 08/NQ-TW); Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48/NQ-TW) và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49/NQ-TW). Trong các nghị quyết này Đảng ta chỉ rõ cần phải “coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hương chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm. Khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế”. Đồng thời, “xử lý nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm khắc để làm gương cho người khác”. Đây là những quan điểm mới của Đảng và Nhà nước ta về chính sách hình sự mà BLHS cần phải được thể chế hóa một cách đầy đủ.
Đặc biệt, sự phát triển của Hiến pháp năm 2013 về việc ghi nhận và đảm bảo thực hiện tốt hơn các quyền con người, quyền công dân đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cả hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật hình sự với tính cách là công cụ pháp lý quan trọng và sắc bén nhất trong việc bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Theo đó, một mặt, BLHS cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng bảo đảm xử lý nghiêm các hành vi xâm hại các quyền con người, quyền cơ bản của công dân; mặt khác cần nghiên cứu, đề xuất sửa đổi theo hướng đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội; tạo điều kiện thuận lợi để người bị kết án tái hòa nhập cộng đồng. Thực tiễn cho thấy, vẫn còn tình trạng quyền con người, quyền cơ bản của công dân, nhất là đối với các đối tượng yếu thế trong xã hội vẫn chưa được tôn trọng một cách đầy đủ, toàn diện. Nhìn chung, người dân chưa thực sự cảm thấy an toàn về môi trường sống, vẫn còn xảy ra những vụ giết người, cướp của tàn bạo gây chấn động trong dư luận và gây tâm lý hoang mang trong một bộ phận nhân dân; người dân chưa thực sự yên tâm phát huy tính sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như tích cực, chủ động tham gia phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật. Tình trạng ô nhiễm môi trường, mất vệ sinh an toàn thực phẩm, mất an toàn trong lao động, trong xây dựng, trong khi tham gia giao thông đã đến mức báo động. Đối với người bị kết án thì việc xóa án tích, nhất là đương nhiên được xóa án tích hiện nay rất phức tạp, thủ tục rườm rà chưa tạo điều kiện thuận lợi cho họ tái hòa nhập cộng đồng. Vì vậy, BLHS phải được tiếp tục hoàn thiện để góp phần tạo ra một khung pháp lý đủ mạnh nhằm bảo vệ một môi trường sống an lành cho người dân; bảo vệ tốt hơn các quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân; động viên khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân yên tâm tham đấu tranh phòng, chống tội phạm, phát triển kinh tế, sáng tạo khoa học.
Thứ ba, BLHS hiện hành chưa cập nhật được đầy đủ, kịp thời các hành vi vi phạm có tính chất phổ biến, nguy hiểm cao cho xã hội để có biện pháp xử lý hình sự thích đáng. Điển hình có thể kể tới các hành vi lạm dụng lao động trẻ em; chiếm đoạt, mua bán trái phép mô tạng, các bộ phận cơ thể người; vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ; lợi dụng bán hàng đa cấp để chiếm đoạt tiền, tài sản; các vi phạm trong các lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, môi trường, công nghệ cao. Điều này chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Thứ tư, BLHS hiện hành được ban hành từ năm 1999 trong bối cảnh nước ta chưa hội nhập sâu vào thế giới, nhiều điều ước quốc tế chúng ta chưa có điều kiện gia nhập, do vậy, chưa phản ánh được những đặc điểm và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong điều kiện hội nhập quốc tế, chưa tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ngày nay, xu thế chủ động hội nhập quốc tế đã trở thành nhu cầu nội tại của Việt Nam. Trên thực tế, nước ta đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực và đã trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế đa phương, trong đó có các công ước về phòng chống tội phạm. Bên cạnh đó, cùng với quá trình hội nhập quốc tế, nước ta cũng đang phải đối mặt với sự gia tăng của các loại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, các tội phạm do người nước ngoài thực hiện. Điều này, đòi hỏi phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung BLHS để nội luật hóa các quy định về hình sự trong các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên nhằm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của quốc gia thành viên và tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc chủ động và tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm, đặc biệt là các tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.
Ngoài ra, BLHS hiện hành cũng còn nhiều bất cập về mặt kỹ thuật lập pháp liên quan đến sự thống nhất giữa Phần chung và Phần các tội phạm; các dấu hiệu định tội, định khung của nhiều tội danh; các tội ghép; cách thiết kế khung hình phạt cũng như khoảng cách khung hình phạt của một số tội danh; chưa có sự nhất quán trong cách phân chia các chương tội phạm... Những bất cập này cũng ảnh hưởng lớn đến việc hướng dẫn thi hành và áp dụng các quy định của BLHS trên thực tế.
Những hạn chế, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực và hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; chưa thực sự tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước cũng như cho việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền của người dân. Do đó, việc xây dựng ban hành BLHS mới nhằm thay thế BLHS năm 1999 là hoàn toàn đúng đắn và hết sức cần thiết. Do đó, ngày 27/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua BLHS số 100/2015/QH13 năm 2015 cùng Nghị quyết thi hành Bộ luật số 109/2015/QH13. Ngày 18/12/2015, Chủ tịch nước đã ký Lệnh số 33/2015/L-CTN công bố Bộ luật và Nghị quyết này.
Với tinh thần sửa đổi toàn diện, BLHS 2015 gồm có 26 chương với 426 điều, được thiết kế thành 03 phần, Phần thứ nhất: Những quy định chung (gồm 12 chương, từ Điều 01 đến Điều 107); Phần thứ hai: Các tội phạm (gồm 14 chương, từ Điều 108 đến Điều 425); và Phần thứ ba: Điều khoản thi hành (gồm 01 điều - Điều 426).
2. Những sửa đổi, bổ sung cụ thể đối với các tội phạm kinh tế
2.1. Sửa đổi, bổ sung một số tội phạm trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại (từ Điều 188 đến Điều 199)
So với quy định tại BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế tại BLHS năm 2015 có những sửa đổi, bổ sung cơ bản đối với một số tội phạm trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại như sau:
Điều 188. Tội buôn lậu
Ở điều luật này có một số điểm mới cần lưu ý:
ô Về khung hình phạt:
Tại khung 1, cấu thành cơ bản đã bỏ tình tiết định tội “hàng cấm có số lượng lớn”, theo đó việc buôn bán hàng cấm qua biên giới sẽ bị xử lý về tội buôn bán hàng cấm quy định tại Điều 190 BLHS năm 2015; bỏ các tình tiết định khung tăng nặng liên quan đến hàng cấm và tăng mức phạt tiền là hình phạt chính "từ 10 triệu đến 100 triệu" lên "từ 50 triệu đến 300 triệu". Tại các khung tăng nặng, đã cụ thể hóa bằng tiền tình tiết thu lợi bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn; bỏ các tình tiết định khung: hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.
Ngoài ra, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) bổ sung quy định phạt tiền là hình phạt chính vào các khoản 2,3 của điều luật, đồng thời, nâng mức phạt tiền là hình phạt bổ sung (BLHS 1999: từ 3 triệu đồng đến 30 triệu đồng, BLHS 2015: từ 20 triệu đồng đến 100 triệu đồng); Bổ sung việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân có hành vi buôn lậu.
ô Lưu ý:
+ Hành vi buôn lậu không chỉ là buôn bán qua biên giới như BLHS năm 1999 mà cả buôn bán trong nước nhưng từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại từ nội địa vào khu phi thuế quan.
+ Đối với hành vi “cố ý không kê khai hoặc khai sai về thuế đối với hàng hóa nhập khẩu, xuất khẩu”, trong thực tiễn lâu nay hành vi này thường bị xử lý về tội buôn lậu, nay sẽ bị xử lý về tội trốn thuế (xem điểm g, khoản 1, Điều 200).
Điều 189. Tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới
So với quy định tại Điều 154 BLHS 1999, quy định tại BLHS năm 2015 có những điểm đáng lưu ý là:
ô Về hình phạt:
Mức hình phạt tiền ở khoản 1 đã được nâng lên (BLHS 199: từ 5 triệu đồng đến hai mươi triệu đồng; BLHS 2015 từ 20 triệu đồng đến 200 triệu đồng);
BLHS năm 1999 quy định ở điểm b, khoản 1 là : Đối với vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm; điểm b, khoản 1 Điều 189 BLHS năm 2015 quy định: Di vật, cổ vật có giá trị lịch sử, văn hóa (không còn tình tiết đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm);
ô Các dấu hiệu định tội:
Tại khoản 1, cấu thành cơ bản đã bỏ tình tiết định tội “hàng cấm có số lượng lớn”, theo đó việc vận chuyển hàng cấm qua biên giới sẽ bị xử lý về tội vận chuyển hàng cấm quy định tại Điều 191 BLHS năm 2015; bỏ các tình tiết định khung tăng nặng liên quan đến hàng cấm;
Lưu ý: Nếu hàng hóa là hàng cấm quy định tại các điều 190, 191 thì chuyển xử lý theo hành vi tương ứng ở các tội này.
Hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới không chỉ là vận chuyển qua biên giới như BLHS năm 1999 mà cả vận chuyển trong nước nhưng từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại từ nội địa vào khu phi thuế quan.
Điều 190. Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm
So với quy định tại Điều 155 BLHS 1999, quy định tại Điều 190 BLHS năm 2015 có những điểm đáng lưu ý là:
Khái niệm “hàng cấm” được mở rộng: Khoản 1, Điều 155 BLHS 1999 quy định hàng cấm là “hàng hóa mà Nhà nước cấm kinh doanh”; khoản 1 Điều 190 BLHS năm 2015 quy định hàng cấm là “hàng hóa mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam”. Lưu ý phân biệt hàng cấm với hàng cấm nhập khẩu, hàng hóa hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện theo các danh mục riêng.
Khoản 1, Điều 155 BLHS 1999 quy định hàng cấm có số lượng lớn, thu lợi bất chính lớn hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một số hành vi…thì mới phạm tội. Điểm a, Khoản 1 Điều 190 BLHS năm 2015 quy định đối với hàng cấm là hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật cấm sử dụng trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, làm muối, sơ chế, chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản và muối thì không có quy định về số lượng, giá trị, nghĩa là số lượng nhỏ, giá trị nhỏ vẫn cấu thành tội phạm. Đối với các loại hàng hóa khác, giá trị hàng phạm pháp phải từ 100 triệu đồng trở lên.
BLHS năm 2015 đã lượng hóa giá trị hàng phạm pháp, khởi điểm để cấu thành tội phạm là 100 triệu đồng; lượng hóa giá trị thu lợi bất chính khởi điểm để cấu thành tội phạm là 50 triệu đồng hoặc dưới mức nói trên nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính, đã bị kết án về một số hành vi…Đối với buôn bán hàng cấm qua biên giới thì trị hàng phạm pháp, khởi điểm để cấu thành tội phạm là 50 triệu đồng;
Bổ sung phạt tiền là hình phạt chính vào khoản 2 của Điều luật, đồng thời nâng mức phạt tiền là hình phạt bổ sung (BLHS 1999: từ 3 triệu đồng đến 30 triệu đồng, BLHS 2015: từ 20 triệu đồng đến 100 triệu đồng); Bổ sung việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân có hành vi buôn lậu.
Điều 191. Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
Đây là tội phạm được tách ra từ Điều 155 BLHS năm 1999 (Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm) với mức hình phạt nhẹ hơn so với tội sản xuất, buôn bán hàng cấm. Các tình tiết định tội, định khung cơ bản giống như được nêu về tội sản xuất, buôn bán hàng cấm (Điều 190) đã nêu ở trên.
Điều 192. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả
Tội này được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở Điều 156 BLHS năm 1999, nhưng theo hướng nghiêm khắc hơn (nâng mức hình phạt khởi điểm của khung 1 từ 6 tháng lên 1 năm, nâng mức khởi điểm khung 2 từ 3 năm lên 5 năm; giảm giá trị hàng giả tương đương hàng thật thuộc cấu thành cơ bản từ 30 triệu đồng đến 150 trệu đồng từ BLHS năm 1999 xuống còn 20 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng đối với trường hợp xác định được theo giá bán, niêm yết, giá ghi trong hóa đơn). .
Cụ thể hóa tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng đối với trường hợp giá trị hàng giả chưa đến mức khởi điểm là gây tổn hại sức khỏe của một người với tỷ lệ từ 31-60%; gây tổn hại cho sức khỏe của 2 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31-60 % hoặc gây thiệt hại tài sản từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. Từ khoản 2 trở lên các hậu quả này cũng được quy định cụ thể đối với các tình tiết gây hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng theo tỷ lệ tổn hại sức khỏe và giá trị tài sản.
Cụ thể hóa giá trị thu lợi bất chính lớn (khoản 2 từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng, khoản 3 từ 500 triệu đồng trở lên).
Bổ sung tình tiết định khung tăng nặng ở khoản 2 là “qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa và ngược lại”. Bổ sung việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại có hành vi sản xuất, buôn bán hàng cấm.
Điều 193. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm
Tội này được tách ra từ Điều 157 BLHS năm 1999 (Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh). Những sửa đổi, bổ sung cơ bản là:
Thứ nhất: Giảm mức hình phạt (BLHS 1999: Khung 1 quy định 2 năm-7 năm, khung 2: 5-12 năm, khung 3 từ 12-20 năm tù, khung 4 từ tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình; BLHS 2015, khung 1: 2-5 năm, khung 2: 5-10 năm tù; khung 3 từ 10-15 năm, khung 4, từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân);
Thứ hai: Cụ thể hóa các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng” bằng các định lượng cụ thể.
Bổ sung việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân có hành vi phạm tội này
Điều 194. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, phòng bệnh
“Sản xuất hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh” được hiểu là hành vi làm (tạo) ra sản phẩm, hàng hóa là các đối tương nêu trên một cách trái phép, giống sản phẩm, hàng hóa được nhà nước cho phép sản xuất, nhập khẩu và tiêu thụ trên thị trường (hàng thật) gây nhầm lẫn hoặc để lừa dối khách hàng.
“Buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh” được hiểu là hành vi mua hàng của các đối tương nêu trên với giá rẻ và dùng thủ đoạn gian dối để bán cho khách hàng với giá của hàng thật.
Tội này được tách ra từ Điều 157 BLHS năm 1999 (Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh). Những sửa đổi, bổ sung cơ bản là:
Cụ thể hóa các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng” bằng các định lượng cụ thể.
Bổ sung việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại có hành vi phạm tội này.
BLHS năm 1999 quy định việc xác định giá trị của hàng giả phải căn cứ theo giá hàng thật.
BLHS năm 2015 quy định về việc tính giá trị của hàng giả theo giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn; trường hợp không xác định được các loại giá nêu trên thì xác định theo giá của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng.
Luật số 12/2017/QH14 kế thừa và bổ sung trên cơ sở quy định của BLHS năm 1999, theo đó, lấy giá hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng để xác định giá trị của hàng giả.
Điều 195. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi
“Sản xuất hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi”. Được hiểu là hành vi tạo ra sản phẩm hàng hóa là các đối tương nêu trên một cách trái phép giống sản phẩm, hàng hóa được nhà nước cho phép sản xuất, nhập khẩu và tiêu thụ trên thị trường (hàng thật) gây nhầm lẫn hoặc để lừa dối khách hàng hoặc làm ra những sản phẩm hàng hóa giảm chất lượng hoặc công dụng.
“Buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi”. Được hiểu là hành vi mua hàng của các đối tương nêu trên với giá rẻ và dùng thủ đoạn gian dối để bán cho khách hàng với giá của hàng thật.
Những sửa đổi, bổ sung cơ bản BLHS năm 2015 là:
Tăng thêm khung hình phạt (Điều 158 BLHS 1999 có 3 khung, BLHS 2015 có 4 khung); khởi điểm khoản 2 tăng từ 3 năm lên 5 năm, hình phạt cao nhất tăng từ 15 năm lên 20 năm. Thay tình tiết định tội, định khung “số lượng lớn, số lượng rất lớn, số lượng đặc biệt lớn” bằng giá trị hàng giả tính theo giá bán, giá trị niêm yết, giá ghi trong hóa đơn hoặc tính theo giá hàng giả tương đương với giá trị hàng thật có cùng công dụng.
Cụ thể hóa các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng, gây hậu quả rất nghiêm trọng, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” bằng các mức thiệt hại về tài sản cụ thể.
Bổ sung tình tiết định khung tăng nặng “thu lợi bất chính” ở các khoản 2, 3 với các mức định lượng cụ thể. Bổ sung việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân có hành vi phạm tội này. Luật số 12/2017/QH14 bổ sung tình tiết với mức định lượng cụ thể vào khoản 1 Điều 195.
Điều 196. Tội đầu cơ
“Đầu cơ” được hiểu là hành vi lợi dụng tình hình khan hiếm hoặc tạo ra sự khan hiếm giả tạo trong tình hình thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh hoặc tình hình khó khăn về kinh tế mua vét hàng hóa thuộc danh mục hàng hóa được nhà nước định giá nhằm bán lại thu lợi bất chính.
Tội này tương ứng với Điều 160 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
Những sửa đổi, bổ sung cơ bản là:
Thay các tình tiết số lượng hàng hóa “số lượng lớn, số lượng rất lớn, số lượng đặc biệt lớn” bằng tình tiết giá trị hàng hóa với các mức cụ thể.
Cụ thể hóa tình tiết “thu lợi bất chính lớn, thu lợi bất chính rất lớn, thu lợi bất chính đặc biệt lớn” bằng các mức định lượng số tiền cụ thể. - Bổ sung tình tiết “ tái phạm nguy hiểm” ở khoản 3. Bỏ các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” ở khoản 1 và tình tiết “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” ở khoản 3; cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng” bằng tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”.
Giảm mức hình phạt đối với trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. Bổ sung việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân có hành vi phạm tội này.
“Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung cụ thể:
i) Bổ sung từ “cấm” vào trước cụm từ “hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định”tại điểm d khoản 5 Điều 196.
h) Thay thế cụm từ “phạm tội thuộc trường hợp quy định taaij khoản 2 điều này” bằng cụm từ “phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm a,d,đ và e khoản 2 Điều này” tại điểm b khoản 5 Điều 196”.
Điều 197. Tội quảng cáo gian dối
“Quảng cáo gian dối được hiểu là hành vi quảng cáo sai với sự thật của hàng hóa, dịch vụ về 01 trong các nội dung sau: quy cách, chất lượng, giá cả, công dụng, kiểu dáng, chủng loại bao bì, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành”.
Tội này tương ứng với Điều 168 Bộ luật hình sự năm 1999.
Luật 2015 sửa đổi, bổ sung cơ bản so với Điều 168 BLHS năm 1999 là bỏ tình tiết định tội “gây hậu quả nghiêm trọng”; điều đó có nghĩa là, nếu hành vi quảng cáo gian dối về hàng hóa, dịch vụ bắt buộc phải là “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này chưa được xóa án tích” mới bị coi là tội phạm và bị xử lý hình sự, kể cả là gây hậu quả nghiêm trọng.
Điều 198. Tội lừa dối khách hàng
“Lừa dối khách hàng đươc hiểu là hành vi mua bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ mà cân, đo, đong, đếm, tính gian, hàng hóa, dịch vụ hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác đối với khách hàng để thu lợi bất chính”.
Tội này tương ứng với Điều 162 Bộ luật hình sự năm 1999.
Luật 2015 sửa đổi, bổ sung cơ bản so với Điều 162 BLHS năm 1999 là:
Bỏ tình tiết định tội “gây hậu quả nghiêm trọng”, bổ sung tình tiết định khung cơ bản ở khoản 1 là thu lợi bất chính từ 5 triệu đến 50 triệu đồng; Cụ thể hóa tình tiết “thu lợi bất chính lớn” ở khoản 2 là từ 50 triệu đồng trở lên. Ngoài ra, BLHS 2015 còn bổ sung các tình tiết định khung 2 là: có tổ chức; có tính chất chuyên nghiệp; dùng thủ đoạn xảo quyệt.
Giảm mức hình phạt đối với tội này so với BLHS 1999, cụ thể là: ở khung 1, bỏ hình phạt tù; ở khung 2, giảm hình phạt từ 2 - 7 năm tù xuống còn 1-5 năm tù.
Điều 199. Tội vi phạm các quy định về cung ứng điện
“Quy phạm các quy định về cung ứng điện được hiểu là hành vi của người có trách nhiệm của ngành điện lực đã thực hiện mà việc đóng điện, cắt điện, từ chối cung cấp điện trái quy định của pháp luật hoặc trì hoản việc xử lý sự cố điện không có lý do chính đáng”.
Tội này tương ứng với Điều 177 Bộ luật hình sự năm 1999.
Luật 2015 sửa đổi, bổ sung cơ bản so với Điều 177 BLHS năm 1999 là cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” bằng các con số cụ thể thiệt hại về sức khỏe, tính mạng và tài sản; chia từ 2 khung hình phạt từ Điều 177 BLHS năm 1999 thành 3 khung hình phạt, nhưng hình phạt tối thiểu và tối đa không thay đổi.
Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung Điều 199 như sau:
1. Người nào có trách nhiệm mà đóng điện, cắt điện, từ chối cung cấp điện trái quy định của pháp luật hoặc trì hoãn việc xử lý sự cố điện không có lý do chính đáng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
c) Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
d) Đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 150.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Làm chết người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
c) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Làm chết 02 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2.2. Sửa đổi, bổ sung các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính, ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm (từ Điều 200 đến Điều 216)
Điều 200. Tội trốn thuế
So với Điều 161 BLHS năm 1999, tội trốn thuế có những sửa đổi cơ bản sau đây:
BLHS năm 2015 đã liệt kê cụ thể các hành vi trốn thuế ở cấu thành cơ bản, gồm 09 loại hành vi;
Tăng mức định lượng số tiền trốn thuế ở các khung;
Bổ sung tình tiết định khung ở khoản 2 là: Có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; phạm tội từ 2 lần trở lên; tái phạm nguy hiểm (bỏ tình tiết tái phạm); bỏ tình tiết định khung 3 tại Điều 161 BLHS năm 1999 (trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác).
Sửa đổi hình phạt bổ sung: phạt tiền từ 20 triệu đến 100 triệu đồng thay cho phạt tiền từ 1 lần đến 3 lần thuế trốn; bổ sung quy định cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
Tại khoản 3, bên cạnh hình phạt tù như quy định tại Điều 161 BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 còn bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính để Tòa án lựa chọn áp dụng. Quy định này thể hiện phương châm lấy chế tài mang tính "kinh tế" để xử lý tội phạm về kinh tế.
Bổ sung việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân có hành vi phạm tội này.
ô Lưu ý:
+ Trong cấu thành cơ bản của tội này, tại điểm g, khoản 1 có quy định hành vi “cố ý không kê khai hoặc khai sai về thuế đối với hàng hóa nhập khẩu, xuất khẩu”; trong thực tiễn lâu nay hành vi này thường bị xử lý về tội buôn lậu, nay sẽ bị xử lý về tội trốn thuế với mức hình phạt nhẹ hơn rất nhiều.
+ Tất cả các hành vi khách quan nêu tại Khoản 1 mà nhằm mục đích trốn thuế thì mới chịu TNHS về tội trốn thuế; trường hợp người thực hiện hành vi khách quan nêu trên, ngoài việc trốn thuế mà còn xâm phạm khách thể khác của BLHS thì bị truy cứu TNHS theo điều luật tương ứng.
+ Đối với những trường hợp trốn thuế dưới 100.000.000 đồng thì phải có một trong các điều kiện khác là: Đã đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại 22 điều của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; bao gồm các điều: 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 202, 250, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311.
Điều 201. Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
So với Điều 163 BLHS năm 1999, tội này có những sửa đổi cơ bản như sau:
Cho vay lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật dân sự (thay vì 10 lần như BLHS 1999); bỏ tình tiết “có tính chất chuyên bóc lột”, bổ sung các tình tiết “thu lợi bất chính từ 30 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng hoặc đã bị xử lý hành chính, bị kết án, chưa xóa án tích mà còn vi phạm”. Bộ luật cũng đã lượng hóa số tiền thu lợi bất chính lớn là thu lợi bất chính từ 100 triệu đồng trở lên.
Cấu thành cơ bản của tội này nặng hơn so với BLHS năm 1999;
Cụ thể hóa mức tiền phạt với tính cách là hình phạt chính.
Điều 202. Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả
Tội này được sửa đổi cơ bản theo hướng cụ thể hóa số lượng tem giả, vé giả và số tiền thu lợi bất chính để dễ xử lý trong thực tế.
+ Khoản 1: Bỏ quy định số lượng lớn; Cụ thể hóa các hành vi khách quan của tội phạm bằng việc định lượng về số lượng, mệnh giá của tem giả, vé giả và số tiền thu lợi bất chính;
+ Khoản 2: Bỏ quy định thu lợi bất chính lớn; định lượng cụ thể vào các tình tiết định khung về số lượng, mệnh giá của tem giả, vé giả và số tiền thu lợi bất chính. Hình phạt chính và hình phạt bổ sung bằng tiền trong Luật mới cao hơn;
+ Khoản 1: Bổ sung hình phạt cải tạo không giam giữ.
Lưu ý: Điều luật đã quy định rõ về định lượng để xử lý đối với người “làm tem giả, vé giả”. Do vậy, chỉ cần chứng minh được người nào đó đã làm giả và đủ định lượng theo quy định của điều luật là có thể xem xét truy cứu TNHS theo điều luật này.
Điều 203. Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
Những sửa đổi so với qui định tại Điều 164a, BLHS năm 1999 là:
+ Cụ thể hóa tình tiết “số lượng lớn” về hóa đơn là “dạng phôi từ 50 số đến dưới 100 số hoặc hóa đơn đã ghi nội dung từ 10 số đến dưới 30 số”;
+ Bổ sung tình tiết định tội ở cấu thành cơ bản (khoản 1) là: hoặc thu lợi bất chính từ 30 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng; đồng thời bỏ tình tiết “hoặc đã bị xử lý hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”.
+ Tại khoản 2 quy định bổ sung khả năng người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 200 triệu đồng đến 500 triệu đồng (hoặc bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm), chứ không chỉ bị phạt tù như BLHS năm 1999.
+ Cụ thể hóa các khái niệm hóa đơn, chứng từ có số lượng rất lớn hoặc đặc biệt lớn; thu lợi bất chính lớn bằng số tiền cụ thể.
+ Bổ sung quy định xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội này.
Điều 204. Tội vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
Những sửa đổi so với qui định tại Điều 164b, BLHS năm 1999 là:
+ Cụ thể hóa tình tiết định tội “gây hậu quả nghiêm trọng” ở cấu thành cơ bản (khoản 1) bằng việc quy định mức định lượng thiệt hại cho ngân sách Nhà nước hoặc cho người khác từ 100 triệu đồng đến 500 triệu đồng; bỏ tình tiết “hoặc đã bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”.
+ Cụ thể hóa tình tiết định khung 2 “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” bằng việc quy định mức định lượng thiệt hại từ 500 triệu đồng trở lên; bỏ tình tiết định khung 2 “phạm tội có tổ chức”;
+ BLHS năm 2015 quy định hình phạt nhẹ hơn đối với tội này so với BLHS năm 1999, cụ thể: khoản 1, bỏ hình phạt tù; khoản 2, bổ sung phạt tiền với tư cách là hình phạt chính; giảm mức phạt tù đối với tội này xuống còn "từ 06 tháng đến 03 năm" (theo BLHS năm 1999 là phạt tù từ 1 đến 5 năm).
+ Bổ sung khoản 4 quy định về xử phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội này.
Điều 205. Tội lập quỹ trái phép
+ Khoản 1: bãi bỏ tình tiết đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm; thay thế tình tiết "gây hậu quả nghiêm trọng" bằng tình tiết "gây thiệt hại cho ngân sách Nhà nước" với mức định lượng cụ thể bằng tiền;
+ Khoản 2: bãi bỏ quy định quỹ trái phép có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng và gây hậu quả rất nghiêm trọng mà thay vào đó là tình tiết gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước bằng các mức tiền cụ thể.
+ Khoản 3: bãi bỏ quy định giá trị của quỹ trái phép và gây hậu quả đăcị biệt nghiêm trọng mà thay vào đó là tình tiết gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước bằng các mức tiền cụ thể.
Về hình phạt: Khoản 1: Bổ sung hình phạt tiền và bỏ hình phạt tù; Khoản 2: Bổ sung hình phạt tiền; Giảm mức khởi điểm hình phạt tù từ 03 năm xuống 01 năm; Giảm mức cao nhất hình phạt tù từ 07 năm xuống 05 năm. Khoản 4: hình phạt bổ sung là hình phạt tiền quy định ở mức cao hơn.
Điều 206. Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng
Khách thể tội phạm mở rộng phạm vi của tội phạm thêm đối với Chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
ô Hành vi khách quan:
+ Khoản 1: Quy định cụ thể các hành vi trong hoạt động hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng; bỏ quy định gây hậu quả nghiêm trọng bằng việc lượng hóa hậu quả thiệt hại bằng tiền;
+ Khoản 2: Cụ thể hóa dấu hiệu gây hậu quả rất nghiêm trọng bằng việc lượng hóa hậu quả bằng tiền;
+ Khoản 3: Cụ thể hóa dấu hiệu gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng bằng việc lượng hóa hậu quả bằng tiền.
ô Lưu ý: Điều luật mới đã cụ thể các hành vi khách quan hơn, nhưng việc hiểu nội hàm của các hành vi đó như thế nào là vấn đề rất quan trọng. Do đó, trong quá trình áp dụng điều luật này, cần nghiên cứu kỹ các quy định của Luật các tổ chức tín dụng và Thông tư số 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Một số nội dung cơ bản như sau:
a) Cấp tín dụng cho những trường hợp không được cấp tín dụng trừ trường hợp cấp dưới hình thức phát hành thẻ tín dụng.
Nội hàm của dấu hiệu này bao gồm những đối tượng được quy định tại Điều 126 Luật các tổ chức tín dụng và đối với khách hàng để đầu tư, kinh doanh trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết.
b) Cấp tín dụng không có bảo đảm hoặc cấp tín dụng với điều kiện ưu đãi cho những đối tượng không được cấp tín dụng theo quy định của pháp luật;
+ Cấp tín dụng không có bảo đảm: Dấu hiệu này không khó, từ trước tới nay vẫn đang áp dụng giải quyết xử lý các đối tượng theo Điều 179 năm 1999;
+ Cấp tín dụng với điều kiện ưu đãi cho những đối tượng không được cấp tín dụng theo quy định của pháp luật: có thể hiểu là những đối tượng nêu ở điểm a trên đây còn được hưởng điều kiện ưu đãi. Điều kiện ưu đãi được hiểu là: ưu đãi về lãi suất, hồ sơ, trình tự, thủ tục xét duyệt cấp tín dụng, biện pháp bảo đảm nghĩa vụ nợ và các biện pháp xử lý thu hồi nợ so với quy định của pháp luật và các quy định tại Quy định nội bộ về cấp tín dụng, quản lý tiền vay để bảo đảm việc sử dụng vốn vay đúng mục đích áp dụng đối với khách hàng và người có liên quan
c) Vi phạm quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn cho hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng
Về các hạn chế để bảo đảm an toàn cho hoạt động tín dụng được quy định tại các điều từ Điều 126 đến Điều 135 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;
d) Cố ý nâng khống giá trị tài sản bảo đảm khi thẩm định giá để cấp tín dụng đối với trường hợp phải có tài sản bảo đảm.
đ) Vi phạm quy định của pháp luật về tổng mức dư nợ tín dụng đối với các đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng. Theo quy định của pháp luật thì:
Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với các đối tượng: a) Tổ chức kiểm toán, kiểm toán viên đang kiểm toán tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; thanh tra viên đang thanh tra tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; b) Kế toán trưởng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; c) Cổ đông lớn, cổ đông sáng lập; d) Doanh nghiệp có một trong những đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 126 Luật các tổ chức tín dụng sở hữu trên 10% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó; đ) Người thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng; không được vượt quá 5% vốn tự có của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một đối tượng là: công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng hoặc doanh nghiệp mà tổ chức tín dụng nắm quyền kiểm soát không được vượt quá 10% vốn tự có của tổ chức tín dụng; đối với tất cả các đối tượng nêu trên không được vượt quá 20% vốn tự có của tổ chức tín dụng.
e) Cấp tín dụng vượt giới hạn so với vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan, trừ trường hợp có chấp thuận của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
g) Vi phạm quy định của pháp luật về góp vốn, giới hạn góp vốn, mua cổ phần, điều kiện cấp tín dụng hoặc mua bán tài sản;
Các dấu hiệu này được quy đinh từ Điều 18 đến Điều 20 của Thông tư số 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
h) Phát hành, cung ứng, sử dụng các phương tiện thanh toán không hợp pháp; làm giả chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán; sử dụng chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán giả; tiến hành hoạt động ngân hàng khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
Ý thức chủ quan: Phải là lỗi cố ý (nếu hành vi thực hiện theo lỗi vô ý thì không phạm tội này). Về ý thức chủ quan của người phạm tội có vấn đề đặt ra là:
Thứ nhất: Lỗi cố ý trong tội phạm này cần hiểu là cố ý không thực hiện các quy định mà lẽ ra phải thực hiện, có thể người phạm tội không nghĩ là hậu quả xảy ra, nhưng có thể thấy trước được và có ý thức bỏ mặc (lỗi cố ý gián tiếp)
Thứ hai: Đối với những người vô ý vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng là doanh nghiệp Nhà nước thì có thể bị xử lý về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.
Về hình phạt: Khoản 1: Hình phạt tiền cao hơn; Khoản 2: Giảm mức khởi điểm hình phạt tù từ 05 năm xuống 03 năm, hình phạt cao nhất từ 12 năm xuống 07 năm; Khoản 3: Giảm mức khởi điểm hình phạt tù từ 10 năm xuống 07 năm, hình phạt cao nhất từ 20 năm xuống 12 năm.
i) Kinh doanh vàng trái phép hoặc kinh doanh ngoại hối trái phép;
k) Tiến hành hoạt động ngân hàng khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng.
Điều 207. Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả
Bỏ quy định về ngân phiếu giả, công trái giả;
Khoản 2, Khoản 3: Bỏ quy định nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng bằng việc lượng hóa hậu quả thiệt hại tương ứng bằng tiền;
Bổ sung Khoản 4 để xử lý đối với người chuẩn bị phạm tội này.
Điều 208. Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành công cụ chuyển nhượng giả hoặc các giấy tờ có giá giả khác
Về tội phạm: Khoản 1: Bỏ quy định lưu hành séc giả, bổ sung quy định lưu hành công cụ chuyển nhượng giả; Khoản 2, Khoản 3: Bỏ quy định trong trường hợp nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng bằng việc lượng hóa thiệt hại tương ứng bằng tiền;
Về hình phạt: Khoản 2: Mức cao nhất của khung hình phạt giảm từ 12 năm xuống 10 năm. Tách khoản 3 (quy định hình phạt tù từ 10 năm đến 20 năm) của BLHS năm 1999 thành 02 khoản: khoản 3 quy định hình phạt tù từ 10 năm đến 15 năm; khoản 4 quy định hình phạt tù từ 15 năm đến 20 năm.
Điều 209. Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán
Các dấu hiệu pháp lý: Khoản 1: bãi bỏ quy định “gây hậu quả nghiêm trọng”; Cụ thể hóa các hành vi khách quan và lượng hóa [9] bằng tiền; Khoản 2: Lượng hóa thu lời bất chính bằng tiền; bãi bỏ quy định “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng”, lượng hóa hậu quả thiệt hại bằng tiền.
Hình phạt: Khoản 1: giảm mức khởi điểm của hình phạt từ 06 tháng xuống 03 tháng; Khoản 2: Bổ sung hình phạt tiền vào hình phạt chính; Hình phạt bổ sung là hình phạt tiền quy định ở mức cao hơn.
Bổ sung: khoản 4 quy định về xử phạt đối với PNTM. Đây là một trong những bổ sung cần thiết đáp ứng được nhu cầu đấu tranh với các hành vi cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán của PNTM.
Điều 210. Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán
Các dấu hiệu pháp lý: Khoản 1: Quy định thêm điều kiện để truy cứu TNHS là thu lợi bất chính hoặc gây thiệt hại cho nhà đầu tư cụ thể bằng tiền; Khoản 2: Lượng hóa quy định thu lợi bất chính rất lớn, đặc biệt lớn và gây hậu quả nghiêm trọng bằng tiền.
Về hình phạt: Khoản 1: Hình phạt tiền quy định ở mức cao hơn; Khoản 2: Bổ sung hình phạt tiền vào hình phạt chính; Hình phạt bổ sung là hình phạt tiền quy định ở mức cao hơn.
Bổ sung: khoản 4 quy định về xử phạt đối với PNTM.
Điều 211. Tội thao túng thị trường chứng khoán
Các dấu hiệu pháp lý: Khoản 1: Bỏ quy định gây hậu quả nghiêm trọng, lượng hóa hậu quả thành tiền; Cụ thể hóa các hành vi khách quan trong lĩnh vực hoạt động chứng khoán; Khoản 2: Lượng hóa quy định thu lợi bất chính lớn bằng tiền; bỏ quy định gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, xác định rõ hậu quả xảy ra đối với nhà đầu tư và lượng hóa hậu quả đó bằng tiền;
Về hình phạt: Khoản 1: Bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính; bỏ hình phạt cải tạo không giam giữ; Khoản 2: Bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính; Hình phạt bổ sung bằng tiền cao hơn;
Bổ sung: Khoản 4 quy định mới về xử phạt đối với PNTM.
Điều 212. Tội làm giả tài liệu trong hồ sơ chào bán, niêm yết chứng khoán
Làm giả tài liệu trong hồ sơ chào bán, niêm yết chứng khoán là một tội danh mới trong nhóm các tội liên quan lĩnh vực chứng khoán của BLHS 2015, nhằm xử lý triệt để các hành vi vi phạm trong lĩnh vực này mà trên thực tế, chế tài hành chính xử lý các vi phạm đó không không đủ sức răn đe, trong khi đó thị trường chứng khoán là thị trường tương đối nhạy cảm, có ảnh hưởng lớn tới sự ổn định, phát triển của nền kinh tế đất nước. Về bản chất, làm giả tài liệu trong hồ sơ chào bán, niêm yết chứng khoán có những hành vi khách quan như tội “Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” (Điều 341). Nhưng chỉ khi có hành vi làm giả hồ sơ chào bán, niêm yết chứng khoán theo quy định của pháp luật và có thu lời bất chính hoặc gây thiệt hại cho nhà đầu tư (liên quan đến hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán) thì truy cứu TNHS theo tội này. CTTP của tội này bao gồm:
Chủ thể: bất kỳ cá nhân nào đủ năng lực TNHS và từ đủ 16 tuổi trở lên.
Chủ quan: Tội phạm này được thực hiện với lỗi cố ý.
Khách thể: Khách thể đối với tội phạm này là hoạt động đúng đắn của: Tổ chức chào bán cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng, chào bán cổ phiếu để hoán đổi; Công ty đại chúng; Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Khách quan:
Mặt khách quan của tội phạm này được thể hiện qua hành vi làm giả (làm sai bản chất, làm không đúng sự thật…) đối với tài liệu trong hồ sơ chào bán và hồ sơ niêm yết chứng khoán.
Hồ sơ chào bán chứng khoán bao gồm các thủ tục, giấy tờ, tài liệu được quy định từ Điều 05 đến Điều 18 của Thông tư số 162/2015/TT-BTC ngày 26/10/2015 của Bộ Tài chính.
Hồ sơ niêm yết chứng khoán bao gồm các thủ tục, giấy tờ, tài liệu được quy định tại Điều 5 của Thông tư số 73/2013/TT-BTC ngày 29/5/2013 của Bộ Tài chính.
Điều 213. Tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm
Đây là một tội danh mới trong nhóm các tội liên quan đến bảo hiểm của BLHS năm 2015. Về bản chất, tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, nên được xây dựng thành một tội phạm độc lập thuộc Chương này. CTTP của tội này bao gồm:
Chủ thể:
Cá nhân: Khách hàng tham gia bảo hiểm; Những người đang làm việc trong tổ chức kinh doanh bảo hiểm.
Pháp nhân thương mại (PNTM): PNTM là khách hàng tham gia bảo hiểm; PNTM kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm.
Chủ quan: Tội phạm này được thực hiện với lỗi cố ý
Khách thể:
+ Khách thể trực tiếp: quyền và lợi ích của khách hàng tham gia bảo hiểm, của các công ty kinh doanh bảo hiểm.
+ Khách thể gián tiếp: sự ổn định, sự phát triển của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, nền an sinh xã hội, môi trường đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài và hơn nữa là sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Khách quan: được thể hiện qua 04 loại hành vi gồm:
+ Thông đồng với người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm để giải quyết bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm trái pháp luật;
+ Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin để từ chối bồi thường, trả tiền bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm đã xảy ra;
+ Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin trong hồ sơ yêu cầu bồi thường, trả tiền bảo hiểm;
+ Tự gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe của mình để hưởng quyền lợi bảo hiểm trừ trường hợp luật quy định khác.
Hình phạt:
Cá nhân: gồm 03 loại hình phạt chính là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ và phạt tù có thời hạn. Ngoài ra, cùng với hình phạt chính, cá nhân còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.
PNTM: phạt tiền với mức phạt thấp nhất là 200.000.000 đồng và cao nhất là 7.000.000.000 đồng. Ngoài ra, PNTM còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.
Lưu ý: Trong hành vi khách quan của tội này có một số dấu hiệu gần giống tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Do đó, trong thực tiễn, khi hành vi của một người xâm phạm đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đủ căn cứ khác theo quy định của pháp luật để truy cứu TNHS thì xử lý về tội này.
Điều 214. Tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp
Đây là một tội danh mới được bổ sung vào BLHS năm 2015. CTTP của tội này bao gồm:
Chủ thể: Cá nhân: Những khách hàng tham gia bảo hiểm; Những người đang làm việc trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cơ quan bảo hiểm.
Chủ quan: tội phạm này được thực hiện với lỗi cố ý.
Khách thể:
+ Khách thể trực tiếp: quyền và lợi ích của người lao động, người tham gia bảo hiểm, người dân.
+ Khách thể gián tiếp: sự ổn định, an toàn của chính sách phúc lợi, an sinh xã hội, là sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Khách quan: thể hiện qua 2 loại hành vi:
+ Lập hồ sơ giả hoặc làm sai lệch nội dung hồ sơ bảo hiểm xã hội, hồ sơ bảo hiểm thất nghiệp lừa dối cơ quan bảo hiểm xã hội;
+ Dùng hồ sơ giả hoặc hồ sơ đã bị làm sai lệch nội dung lừa dối cơ quan bảo hiểm xã hội hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp.
Hình phạt: Điều luật này quy định đối với người phạm tội gồm 03 loại hình phạt: phạt tiền; phạt cải tạo không giam giữ và phạt tù có thời hạn. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
Lưu ý: Trong hành vi khách quan của tội này có những dấu hiệu gần giống tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Do đó, trong thực tiễn, khi hành vi của một người xâm phạm đến hoạt động đúng đắn trong hoạt động của cơ quan bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chiếm đoạt tiền bảo hiểm, loại trừ trường hợp phạm vào các tội quy định tại các điều 174, 353, 355 và có đủ căn cứ khác theo quy định của pháp luật để truy cứu TNHS thì xử lý về tội này.
Điều 215. Tội gian lận bảo hiểm y tế
Đây là một tội danh mới được bổ sung vào BLHS năm 2015. CTTP bao gồm:
Chủ thể: Cá nhân: Những khách hàng tham gia bảo hiểm y tế; Những người đang làm việc trong các bệnh viện, cơ sở y tế, cơ quan bảo hiểm.
Chủ quan: Tội phạm này được thực hiện với lỗi cố ý.
Khách thể:
+ Khách thể trực tiếp: quyền và lợi ích của người bệnh tham gia bảo hiểm, người người lao động, người dân.
+ Khách thể gián tiếp: sự ổn định, an toàn của chính sách phúc lợi, an sinh xã hội, là sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Khách quan: thể hiện qua 2 loại hành vi:
+ Lập hồ sơ bệnh án, kê đơn thuốc khống hoặc kê tăng số lượng hoặc thêm loại thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật, chi phí giường bệnh và các chi phí khác mà thực tế người bệnh không sử dụng;
+ Giả mạo hồ sơ, thẻ bảo hiểm y tế hoặc sử dụng thẻ bảo hiểm y tế được cấp khống, thẻ bảo hiểm y tế giả, thẻ đã bị thu hồi, thẻ bị sửa chữa, thẻ bảo hiểm y tế của người khác trong khám chữa bệnh hưởng chế độ bảo hiểm y tế trái quy định.
Hình phạt: Điều luật này quy định đối với người phạm tội gồm 03 loại hình phạt phạt tiền; phạt cải tạo không giam giữ và phạt tù có thời hạn. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
Lưu ý: Trong thực tiễn, khi hành vi của một người xâm phạm đến hoạt động đúng đắn trong hoạt động của cơ quan bảo hiểm y tế, chiếm đoạt tiền bảo hiểm y tế, loại trừ trường hợp phạm vào các tội quy định tại các điều 174, 353, 355 và có đủ căn cứ khác theo quy định của pháp luật để truy cứu TNHS thì xử lý về tội này.
Điều 216. Tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
Đây là một tội danh mới được bổ sung vào BLHS năm 2015. CTTP bao gồm:
Chủ thể: cá nhân và PNTM.
Chủ quan: tội phạm này được thực hiện với lỗi cố ý.
Khách thể:
+ Khách thể trực tiếp: quyền và lợi ích của người lao động, người tham gia bảo hiểm.
+ Khách thể gián tiếp: sự ổn định, an toàn của chính sách phúc lợi, an sinh xã hội, là sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Khách quan: mặt khách quan của tội phạm này được thể hiện qua hành vi trốn đóng hoặc không đóng đầy đủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động theo quy định từ 06 tháng trở lên thông qua thủ đoạn gian dối hoặc thủ đoạn khác.
Hình phạt:
+ Cá nhân: gồm 03 loại hình phạt chính là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ và phạt tù có thời hạn. Ngoài ra, cùng với hình phạt chính, cá nhân còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.
+ PNTM: hình phạt chính đối với PNTM phạm tội này chỉ có một hình phạt duy nhất, đó là phạt tiền. Theo đó, PNTM phạm tội sẽ bị phạt tiền với mức phạt thấp nhất là 200.000.000 đồng và cao nhất là 3.000.000.000 đồng
2.3. Những sửa đổi, bổ sung cụ thể đối với các tội phạm khác xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (từ Điều 217 đến Điều 234)
Ở mục này, Bộ luật hình sự năm 2015 gồm có 18 Điều luật (từ điều 217 đến Điều 234). Tuy nhiên, với lần sửa đổi bổ sung năm 2017, mục này được bổ sung thêm 1 Điều luật là Điều 217a quy định về Tội vi phạm quy định về kinh doanh theo phương thức đa cấp, đã Thay thế Tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng bằng một số tội: Tội vi phạm quy định về cạnh tranh (Đ 217); Tội vi phạm quy định về hoạt động bán đấu giá tài sản (Đ 218); Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản của Nhà nước gây thất thoát, lãng phí (Đ 219); Tội vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng (Đ 220); Tội vi phạm quy định của Nhà nước về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng (Đ 221); Tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng (Đ 222); Tội thông đồng, bao che cho người nộp thuế gây hậu quả nghiêm trọng (Đ 223); Tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng (Đ 224); Tội vi phạm quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (Đ 230); Bổ sung thêm 01 tội phạm mời là Tội thông đồng, bao che cho người nộp thuế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 223), bổ sung vào hành vi vi phạm quy định về kinh doanh đa cấp thêm 01 điều luật mới tại Điều 217a[10] (Tội vi phạm quy định về kinh doanh theo phương thức đa cấp).
Một số sửa đổi, bổ sung cụ thể trong Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 như sau:
Điều 217. Tội vi phạm quy định về cạnh tranh
Đây là một điều luật mới lần đầu tiên được quy định trong BLHS nhằm bảo đảm điều kiện bình đẳng cho các chủ thể kinh tế tham gia thị trường, bởi vì cạnh tranh lành mạnh là động lực phát triển của nền kinh tế.
ô Về chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm này có thể là cá nhân và pháp nhân thương mại.
Điều 217a. Tội vi phạm quy định về kinh doanh theo phương thức đa cấp
Đây là điều luật mới được quy định theo Luật sửa đổi, bổ sung bộ luật hình sự năm 2017. Đây là một trong những hình thức kinh doanh trái phép bị xử lý hình sự. Mặc dù BLHS năm 2015 đã bỏ Điều 159 – Tội kinh doanh trái phép, nhưng một số hành vi kinh doanh trái phép ở một số lĩnh vực vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
ô Về chủ thể của tội phạm là cá nhân phạm tội.
Điều 218. Tội vi phạm quy định về hoạt động bán đấu giá tài sản
Đây là điều luật mới lần đầu tiên được quy định trong BLHS, về thực chất là cụ thể hóa tội Cố ý làm trái quy định của nhà nước trong quản lý kinh tế, gây hậu quả nghiêm trọng tại Điều 165 BLHS năm 1999 trong trong hoạt động bán đấu giá tài sản.
Tuy nhiên, khác với quy định về tội Cố ý làm trái quy định của nhà nước trong quản lý kinh tế, gây hậu quả nghiêm trọng, trong cấu thành của tội này không chỉ quy định hậu quả thiệt hại gây ra cho người khác (từ 50 triệu đồng trở lên) mà hoặc là thu lợi bất chính từ 30 triệu đồng trở lên cũng đã cấu thành tội phạm. Mặt khác, khung hình phạt nhẹ hơn rất nhiều so với tội Cố ý làm trái quy định của nhà nước trong quản lý kinh tế, gây hậu quả nghiêm trọng (khung cơ bản quy định mức tối thiểu là phạt tiền 20 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 2 năm, khung hình phạt cao nhất là phạt tiền từ 200 triệu đồng đến 1 tỷ đồng hoặc phạt tù 1- 5 năm tù, so với khung khởi điểm của Điều 165 BLHS năm 1999 là cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ 1 năm đến 5 năm; khung hình phạt cao nhất là từ 10 năm đến 20 năm tù)
Điều 219. Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí
Đây là tội phạm cụ thể hóa tội Cố ý làm trái quy định của nhà nước trong quản lý kinh tế, gây hậu quả nghiêm trọng tại Điều 165 BLHS năm 1999 trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước và có cấu thành, khung hình phạt giống như tội Cố ý làm trái quy định của nhà nước trong quản lý kinh tế, gây hậu quả nghiêm trọng tại Điều 165 BLHS năm 1999.
Điều 220. Tội vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng
Với Bộ luật hình sự năm 2015, tội này được quy định là Tội vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng.
Tội này cụ thể hóa tội Cố ý làm trái quy định của nhà nước trong quản lý kinh tế, gây hậu quả nghiêm trọng tại Điều 165 BLHS năm 1999 trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước và có cấu thành, khung hình phạt gần giống với tội Cố ý làm trái quy định của nhà nước trong quản lý kinh tế, gây hậu quả nghiêm trọng tại Điều 165 BLHS năm 1999 với những đặc trưng pháp lý sau:
Điều 221. Tội vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng (2017)
Với Bộ luật hình sự năm 2015, tội này được quy định là Tội vi phạm quy định của Nhà nước về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng.
Đây là tội cụ thể hóa Tội cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng của BLHS năm 1999 xảy ra trong lĩnh vực kế toán với những đặc trưng pháp lý sau:
ô Về hành vi khách quan: Luật 2017 bổ sung tỉnh tiết hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm
Điều 222. Tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng
Đây cũng là một tội cụ thể hóa từ Tội cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng của BLHS năm 1999 xảy ra trong lĩnh đấu thầu, nhưng mở rộng sang cả lĩnh vực ngoài Nhà nước với những đặc trưng pháp lý sau:
ô Về hành vi khách quan: Luật sửa đổi BLHS năm 2017 bổ sung tình tiết xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm mới được coi là cấu thành tội phạm.
Điều 223. Tội thông đồng, bao che cho người nộp thuế gây hậu quả nghiêm trọng
Đây là một tội phạm mới lần đầu tiên được quy định trong BLHS với những dấu hiệu pháp lý đặc trưng sau:
ô Về hành vi khách quan:
Là việc một người lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau, gây thất thoát tiền thuế phải nộp từ 100 triệu đến dưới 300 triệu hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, bao gồm:
+ Thực hiện việc miễn thuế, giảm thuế, xóa nợ tiền thuế, xóa nợ tiền phạt, hoàn thuế không đúng quy định của Luật quản lý thuế và các quy định khác của pháp luật về thuế;
+ Xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế không đúng quy định Luật quản lý thuế và quy định khác của pháp luật về thuế.
ô Về chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm là người có chức vụ, quyền hạn trong lĩnh vực quản lý thuế.
ô Về mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm có lỗi cố ý.
ô Về khách thể của tội phạm: Tội phạm xâm phạm đến tính đúng đắn trong hoạt động quản lý thuế của Nhà nước, gây thiệt hại cho việc thu ngân sách, tạo sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp tham gia thị trường và ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.
Điều 224. Tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng
Đây cũng là tội cụ thể hóa từ Tội cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng của BLHS năm 1999 trong lĩnh vực đầu tư công trình xây dựng.
Điều 225. Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan
Đây là điều luật kế thừa từ Điều 170a BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), với những điểm mới cơ bản như sau:
+ Bộ luật hình sự năm 2015 bỏ quy định “quy mô thương mại” và thay bằng quy định cụ thể “thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”.
+ Thay đổi mức phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 500 triệu đồng xuống còn thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
+ Cụ thể hóa tình tiết “phạm tội nhiều lần” thành “phạm tội từ hai lần trở lên”, đồng thời bổ sung một số trường hợp: Thu lợi bất chính từ 300 triệu đồng trở lên; Gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan 500 triệu đồng trở lên; Hàng hóa vi phạm có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên.
+ Bổ sung quy định mới về pháp nhân thương mại cũng là chủ thể của tội phạm với mức phạt tiền tối đa lên đến 3 tỷ đồng; bị đình chỉ hoạt động đến 2 năm hoặc cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 1 đến 3 năm.
Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi theo hướng quy định mức khởi điểm về thu lợi bất chính, giá trị tài sản bị thiệt hại hoặc giá trị hàng hóa... thì sẽ xử lý hình sự ngay mà không kèm theo điều kiện “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”; chỉ giữ lại ở một số điều luật quy định trường hợp dưới mức khởi điểm thì phải có thêm điều kiện “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” thì mới xử lý hình sự.
Điều 226. Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Đây là điều luật kế thừa từ Điều 171 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), với những điểm mới cơ bản tương tự với tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan, cụ thể như sau:
+ Bỏ quy định “quy mô thương mại” và thay bằng quy định cụ thể “ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”.
+ Giữ mức phạt tiền theo quy định cũ từ 50 triệu đồng đến 500 triệu đồng, nhưng tăng mức tối đa của hình phạt cải tạo không giam giữ từ 2 năm lên 3 năm.
+ Tăng mức hình phạt tiền tối thiểu tại khoản 2 từ 400 triệu đồng lên 500 triệu đồng. Đồng thời, cụ thể hóa quy định “phạm tội nhiều lần” thành “phạm tội từ 2 lần trở lên”. Ngoài ra, bổ sung các điểm mới làm tình tiết định khung tăng nặng của khoản 2 điều này gồm:
+ Thu lợi bất chính từ 300 triệu đồng trở lên;
+ Gây thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý 500 triệu đồng trở lên;
+ Hàng hóa vi phạm trị giá 500 triệu đồng trở lên.
+ Bổ sung quy định về pháp nhân thương mại là chủ thể của tội phạm này với mức hình phạt là phạt tiền tối thiểu là 500 triệu đồng, tối đa là 5 tỷ đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 1 đến 3 năm.
Điều 227. Tội vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên (2017)
Với Bộ luật hình sự năm 2015, tội này được quy định là Tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò và khai thác tài nguyên
Đây là điều luật kế thừa từ Điều 172 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), với những điểm mới cơ bản như sau:
Cụ thể hóa tình tiết “Gây hậu quả nghiêm trọng” tại khoản 1 Điều 172 thành các trường hợp sau:
+ Thu lợi bất chính từ nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên nước, dầu khí hoặc khoáng sản khác từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
+ Khoáng sản trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
Bổ sung tình tiết đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Cụ thể hóa tình tiết “Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” tại khoản 2 Điều 172 thành các trường hợp sau:
+ Thu lợi bất chính từ nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên nước, dầu khí hoặc khoáng sản khác 500.000.000 đồng trở lên;
+ Khoáng sản trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;
+ Có tổ chức;
+ Gây sự cố môi trường;
+ Làm chết người;
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 122% trở lên.
Ngoài ra, còn bổ sung quy định về mức phạt tiền tại khoản 2 Điều này số tiền phạt từ 1,5 tỷ đồng đến 5 tỷ đồng, đồng thời, giảm mức hình phạt tù từ 2 đến 10 năm tù xuống còn từ 2 đến 7 năm tù. Bổ sung quy định về pháp nhân thương mại trong tội phạm này với mức phạt tiền tối thiểu từ 1,5 tỷ đồng đến tối đa là 7 tỷ đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn đến 3 năm; cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 1 đến 3 năm.
Điều 228. Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
Đây là điều luật kế thừa từ Điều 173 của BLHS năm 1999 với những sửa đổi, bổ sung cơ bản như sau:
- Khoản 1: Thay cụm từ “của Nhà nước” bằng cụm từ “của pháp luật” và bỏ quy định “gây hậu quả nghiêm trọng”; tăng mức phạt tiền (là hình phạt chính) từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng lên gấp 10 lần “từ 50 triệu đồng đến 500 triệu đồng” và tăng mức tối thiểu của hình phạt tù từ 3 tháng lên 6 tháng.
- Khoản 2: Tăng mức phạt tiền (là hình phạt chính tại khoản 2) từ 30 triệu đến 100 triệu đồng lên từ 500 triệu đồng đến 2 tỷ đồng. Sửa tình tiết “phạm tội nhiều lần” thành “phạm tội từ 2 lần trở lên”. Đồng thời, bổ sung tình tiết định khung tăng nặng “tái phạm nguy hiểm”.
- Khoản 3: Tăng mức phạt tiền là hình phạt bổ sung từ 5 triệu đồng đến 20 triệu đồng lên từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng.
Điều 229. Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai
Đây là điều luật kế thừa từ Điều 174 của BLHS năm 1999 với những sửa đổi, bổ sung cơ bản như sau:
- Khoản 1: cụ thể hóa tình tiết có tính định tính “đất có diện tích lớn hoặc có giá trị lớn” và “gây hậu quả nghiêm trọng” tại khoản 1 Điều 174 BLHS 1999 bằng:
+ Đất trồng lúa có diện tích từ 5.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 50.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2);
+ Đất có giá trị quyền dụng đất được quy thành tiền từ 500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp;
- Khoản 2: cụ thể hóa các tình tiết có tính định tính “đất có diện tích rất lớn hoặc có giá trị rất lớn”; “gây hậu quả rất nghiêm trọng” tại khoản 2 Điều 174 BLHS 1999 bằng:
+ Đất trồng lúa có diện tích từ 30.000 mét vuông (m2) đến dưới 70.000 mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 50.000 mét vuông (m2) đến dưới 100.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ 40.000 mét vuông (m2) đến dưới 80.000 mét vuông (m2);
+ Đất có giá trị quyền dụng đất được quy thành tiền từ 2.000.000.000 đồng đến dưới 7.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 5.000.000.000 đồng đến dưới 15.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp;
Ngoài ra, Điều 229 BLHS năm 2015 còn bổ sung quy định: “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” là tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 2.
- Khoản 3: Cụ thể hóa các tình tiết “đất có diện tích đặc biệt lớn hoặc có giá trị đặc biệt lớn” và “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” tại khoản 3 Điều 174 BLHS 1999 bằng:
+ Đất trồng lúa có diện tích 70.000 mét vuông (m2) trở lên; đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích 100.000 mét vuông (m2) trở lên; đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích 80.000 mét vuông (m2) trở lên;
+ Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền 7.000.000.000 đồng trở lên đối với đất nông nghiệp hoặc 15.000.000.000 đồng trở lên đối với đất phi nông nghiệp.
Điều 230. Tội vi phạm quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Đây cũng là một tội phạm cụ thể hóa từ Tội cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng của BLHS năm 1999 trong lĩnh vực bồi thường, hố trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
* Về hành vi khách quan: Là việc một người đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình có hành vi gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, bao gồm:
+ Vi phạm quy định của pháp luật về bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư;
+ Vi phạm quy định của pháp luật về bồi thường về tài sản, về sản xuất kinh doanh.
* Về chủ thể của tội phạm: Là người có chức vụ, quyền hạn trong việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
* Về mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm có lỗi cố ý.
* Về khách thể của tội phạm: Tội phạm xâm phạm đến tính đúng đắn trong hoạt động quản lý Nhà nước trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Xâm phạm đến lợi ích hợp pháp, gây thiệt hại về tài sản của Nhà nước hoặc của những người là đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi bị Nhà nước thu hồi đất. Gây thiệt hại đến hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Điều 231. Tội cố ý làm trái quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ
Đây là điều luật được kế thừa từ Điều 169 của BLHS năm 1999 với những sửa đổi, bổ sung cơ bản như sau:
- Cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” tại khoản 1 Điều 169 BLHS năm 1999 bằng quy định “gây thiệt hại hoặc thất thoát tiền, hàng cứu trợ từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng” tại khoản 1 Điều 231 Bộ luật hình sự năm 2015.
- Không quy định hình phạt tù tại khoản 1 Điều 231, đồng thời, bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính trong khoản này với mức tiền phạt từ 50 triệu đồng đến 200 triệu đồng.
- Bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính tại khoản 2 Điều 231 với mức tiền phạt từ 200 triệu đến 1 tỷ đồng. Cụ thể hóa tình tiết “phạm tội nhiều lần” tại điểm b, khoản 2 thành “phạm tội từ 2 lần trở lên”.
- Tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” quy định tại điểm c, khoản 2 Điều 169 BLHS 1999 được cụ thể hóa tại các điểm c, d khoản 2 Điều 231 BLHS 2015 như sau:
+ Gây thiệt hại hoặc thất thoát tiền, hàng cứu trợ 300.000.000 đồng trở lên;
+ Gây ảnh hưởng xấu về an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Điều 232. Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản
Đây là điều luật được kế thừa từ Điều 175 của BLHS năm 1999 với những sửa đổi, bổ sung cơ bản như sau:
- Bổ sung quy định “quản lý lâm sản” vào tiêu đề của điều luật để mở rộng phạm vi đối tượng có hành vi vi phạm quy định của pháp luật về quản lý lâm sản cũng bị xử lý hình sự theo Điều này.
- Cụ thể hóa các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” bằng các mức định lượng cụ thể, đồng thời, bổ sung quy định loại trừ “nếu không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 243 của Bộ luật này”, cụ thể như sau:
+ Khai thác trái phép rừng sản xuất với khối lượng từ 20 mét khối (m3) đến dưới 40 mét khối (m3) gỗ loài thực vật thông thường; từ 12,5 mét khối (m3) đến dưới 25 mét khối (m3) gỗ loài thực vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
+ Khai thác trái phép rừng phòng hộ với khối lượng từ 15 mét khối (m3) đến dưới 30 mét khối (m3) gỗ loài thực vật thông thường; từ 10 mét khối (m3) đến dưới 20 mét khối (m3) gỗ loài thực vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
+ Khai thác trái phép rừng đặc dụng với khối lượng từ 15 mét khối (m3) đến dưới 30 mét khối (m3) gỗ loài thực vật thông thường; từ 5 mét khối (m3) đến dưới 10 mét khối (m3) gỗ loài thực vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA; thực vật thuộc Nhóm IIA trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;
+ Khai thác trái phép thực vật rừng ngoài gỗ trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
+ Khai thác thực vật thuộc loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ, các loại thực vật khác thuộc Nhóm IA trị giá từ 30.000.000 đồng đến dưới 60.000.000 đồng hoặc từ 01 mét khối (m3) đến dưới 02 mét khối (m3) gỗ tại rừng sản xuất hoặc từ 0,5 mét khối (m3) đến dưới 1,5 mét khối (m3) tại rừng phòng hộ hoặc từ 0,5 mét khối (m3) đến dưới 01 mét khối (m3) gỗ tại rừng đặc dụng hoặc khu bảo tồn thiên nhiên;
+ Tàng trữ, vận chuyển, chế biến, mua bán trái phép từ 1,5 mét khối (m3) đến dưới 03 mét khối (m3) đối với gỗ loài nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IA hoặc gỗ có nguồn gốc từ nước ngoài của loài thuộc Phụ lục I Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã, nguy cấp hoặc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; từ 10 mét khối (m3) đến dưới 20 mét khối (m3) gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA hoặc gỗ có nguồn gốc từ nước ngoài của loài thuộc Phụ lục II Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã, nguy cấp; từ 20 mét khối (m3) đến dưới 40 mét khối (m3) gỗ loài thực vật thông thường;
+ Tàng trữ, vận chuyển, chế biến, mua bán trái phép các loài thực vật hoang dã khác trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 600.000.000 đồng;
+ Vật phạm pháp có khối lượng hoặc giá trị dưới mức thấp nhất quy định tại một trong các điểm a, b, c, d, đ hoặc e của khoản này nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
- Tăng mức phạt tiền là hình phạt chính tại khoản 1 từ “5 triệu đồng đến 50 triệu đồng” lên “từ 50 triệu đồng đến 300 triệu đồng” và tăng mức tối thiểu của hình phạt tù từ 3 tháng lên 6 tháng.
- Cụ thể hóa tình tiết “Phạm tội trong trường hợp rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” tại khoản 2 Điều 175 BLHS 1999 bằng các mức định lượng cụ thể tại khoản 2 Điều 232 BLHS 2015 như sau:
+ Khai thác trái phép rừng sản xuất với khối lượng từ 40 mét khối (m3) đến dưới 80 mét khối (m3) gỗ loài thực vật thông thường; từ 25 mét khối (m3) đến dưới 50 mét khối (m3) gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
+ Khai thác trái phép rừng phòng hộ với khối lượng từ 30 mét khối (m3) đến dưới 60 mét khối (m3) gỗ loài thực vật thông thường; từ 20 mét khối (m3) đến dưới 40 mét khối (m3) gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
+ Khai thác trái phép rừng đặc dụng với khối lượng từ 30 mét khối (m3) đến dưới 60 mét khối (m3) gỗ loài thực vật thông thường; từ 10 mét khối (m3) đến dưới 20 mét khối (m3) gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
+ Khai thác trái phép thực vật rừng ngoài gỗ trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 400.000.000 đồng;
+ Tàng trữ, vận chuyển, chế biến, mua bán trái phép từ 03 mét khối (m3) đến dưới 06 mét khối (m3) đối với gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IA hoặc gỗ có nguồn gốc từ nước ngoài của loài thực vật thuộc Phụ lục I Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã, nguy cấp hoặc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; từ 20 mét khối (m3) đến dưới 40 mét khối (m3) gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA hoặc gỗ có nguồn gốc từ nước ngoài của loài thực vật thuộc Phụ lục II Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã, nguy cấp; từ 40 mét khối (m3) đến dưới 80 mét khối (m3) gỗ của loài thực vật thông thường;
+ Tàng trữ, vận chuyển, chế biến, mua bán trái pháp luật các loài thực vật hoang dã khác trị giá từ 600.000.000 đồng đến dưới 1.200.000.000 đồng;
+ Phạm tội qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại;
+ Phạm tội có tổ chức;
+ Tái phạm nguy hiểm.
Ngoài ra, khoản này cũng bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính với mức tiền phạt từ 300 triệu đồng đến 1,5 tỷ đồng và giảm mức tối đa của hình phạt tù từ 10 năm xuống còn 7 năm.
- Bổ sung mới khoản 3 Điều này như sau:
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị tù từ 05 năm đến 10 năm.
a) Khai thác trái phép tại rừng sản xuất 80 mét khối (m3) trở lên gỗ loài thực vật thông thường; 50 mét khối (m3) trở lên gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
b) Khai thác trái phép tại rừng phòng hộ 60 mét khối (m3) trở lên gỗ loài thực vật thông thường; 40 mét khối (m3) trở lên gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
c) Khai thác trái phép tại rừng đặc dụng 60 mét khối (m3) trở lên gỗ loài thực vật thông thường; 20 mét khối (m3) trở lên gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
d) Khai thác trái phép thực vật rừng khác trị giá 400.000.000 đồng trở lên;
đ) Tàng trữ, vận chuyển, chế biến, mua bán trái phép 06 mét khối (m3) trở lên gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IA hoặc gỗ có nguồn gốc từ nước ngoài của loài thực vật thuộc Phụ lục I Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã, nguy cấp hoặc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; 40 mét khối (m3) trở lên gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA hoặc gỗ có nguồn gốc nước ngoài của loài thực vật thuộc Phụ lục II Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã, nguy cấp; 80 mét khối (m3) trở lên gỗ loài thực vật thông thường;
e) Tàng trữ, vận chuyển, chế biến, mua bán trái pháp luật các loài thực vật hoang dã khác trị giá 1.200.000.000 đồng trở lên.
- Đối với hình phạt bổ sung là hình phạt tiền tại khoản 3 Điều 175 BLHS 1999, quy định mới tại khoản 4 Điều 232 BLHS 2015 cũng tăng mức tiền phạt từ “5 triệu đồng đến 20 triệu đồng” lên “từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng”.
- Bổ sung quy định pháp nhân thương mại cũng có thể là chủ thể của tội phạm này với mức hình phạt chủ yếu là phạt tiền (là hình phạt chính) từ 300 triệu đồng đến 6 tỷ đồng. Phạt tiền (trong trường hợp là hình phạt bổ sung) từ 100 triệu đồng đến 500 triệu đồng. Đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 6 tháng đến 3 năm; cấm kinh doanh, cấm hoạt động tỏng một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 1 năm đến 3 năm.
Điều 233. Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng
Đây là điều luật được kế thừa từ Điều 176 của BLHS năm 1999 với những sửa đổi, bổ sung cơ bản như sau:
- Bỏ quy định “gây hậu quả nghiêm trọng” tại khoản 1 Điều 176 BLHS 1999 và quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 233 BLHS 2015 như sau:
+ Giao rừng, đất trồng rừng, thu hồi rừng, đất trồng rừng trái pháp luật từ 20.000 mét vuông (m2) đến dưới 25.000 mét vuông (m2) đối với rừng sản xuất; từ 15.000 mét vuông (m2) đến dưới 20.000 mét vuông (m2) đối với rừng phòng hộ hoặc từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 15.000 mét vuông (m2) đối với rừng đặc dụng, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 229 của Bộ luật này;
+ Cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng, đất trồng rừng trái pháp luật từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 12.500 mét vuông (m2) đối với rừng sản xuất; từ 7.500 mét vuông (m2) đến dưới 10.000 mét vuông (m2) đối với rừng phòng hộ hoặc từ 5.000 mét vuông (m2) đến dưới 7.500 mét vuông (m2) đối với rừng đặc dụng, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 229 của Bộ luật này;
+ Cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 232 của Bộ luật này;
+ Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm.
- Tình tiết “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 176 BLHS 1999 được cụ thể hóa bằng quy định “phạm tội từ 2 lần trở lên” tại điểm b khoản 2 Điều 233 Bộ luật hình sự 2015. Đồng thời, cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” tại điểm c khoản 2 Điều 176 BLHS 1999 bằng các điểm c, d và đ khoản 2 Điều 233 như sau:
c) Giao rừng, đất trồng rừng, thu hồi rừng, đất trồng rừng trái pháp luật từ 25.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2) đối với rừng sản xuất; từ 20.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét vuông (m2) đối với rừng phòng hộ hoặc từ 15.000 mét vuông (m2) đến dưới 25.000 mét vuông (m2) đối với rừng đặc dụng;
d) Cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng, đất trồng rừng trái pháp luật từ 12.500 mét vuông (m2) đến dưới 17.000 mét vuông (m2) đối với rừng sản xuất; từ 10.000 mét vuông (m2) đến 15.000 mét vuông (m2) đối với rừng phòng hộ hoặc từ 7.500 mét vuông (m2) đến 12.000 mét vuông (m2) đối với rừng đặc dụng;
đ) Cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 232 của Bộ luật này.
- Cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” tại khoản 3 Điều 176 Bộ luật hình sự 1999 bằng các trường hợp cụ thể tại khoản 3 Điều 233 BLHS 2015 như sau:
a) Giao rừng, đất trồng rừng, thu hồi rừng, đất trồng rừng trái pháp luật từ 40.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng sản xuất; từ 30.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng phòng hộ hoặc từ 25.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng đặc dụng;
b) Cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng, đất trồng rừng trái pháp luật từ 17.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng sản xuất; từ 15.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng phòng hộ hoặc từ 12.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng đặc dụng.
Điều 234. Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã
Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng:
- Về hành vi khách quan thuộc cấu thành cơ bản: Là người hoặc pháp nhân thương mại có các hành vi nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 242 và Điều 244 của Bộ luật này, bao gồm:
+ Săn bắt, giết, nuôi, nhốt, vận chuyển, buôn bán trái phép động vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIB hoặc thuộc Phụ lục II của Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp có giá trị từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng; động vật hoang dã thông thường khác có giá trị từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng;
+ Tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép cá thể, bộ phận cơ thể hoặc sản phẩm của loài động vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIB hoặc thuộc Phụ lục II của Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp có giá trị từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng hoặc của động vật hoang dã thông thường khác có giá trị từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng;
+ Phạm tội trong trường hợp động vật, bộ phận cơ thể hoặc sản phẩm của động vật có giá trị dưới mức quy định tại điểm a và điểm b khoản này nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
* Các tình tiết định khung 2: Ngoài các tình tiết định khung về giá trị tang vật, số tiền thu lợi bất chính còn có các tình tiết: Có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; sử dụng công cụ, phương tiện đánh bắt bị cấm; săn bắt trong khu vực hoặc thời gian bị cấm; buôn bán qua biên giới; tái phạm nguy hiểm.
* Các tình tiết định khung 3: tang vật có giá trị từ 2 tỷ đồng trở lên; thu lợi bất chính từ 500 triệu đồng trở lên.
* Về chủ thể của tội phạm: Là cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi theo luật định hoặc pháp nhân thương mại.
- Về mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm có lỗi cố ý với động cơ vụ lợi.
- Về khách thể của tội phạm: Tội phạm xâm phạm đến hoạt động quản lý Nhà nước trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ động vật hoang dã. Gây tổn hại đến môi trường sinh thái, ảnh hưởng xấu đến việc bảo tồn, duy trì sự tồn tại của các loài động vật hoang dã.
3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật quy định về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Bộ luật hình sự năm 1999 được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1999 trong quá trình thi hành có nhiều bất cập và được sửa đổi bằng Bộ luật hình sự số 37/2009/QH12 ngày 19/6/2009 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2010). Tuy nhiên qua thực tiễn lại phát sinh nhiều vướng mặt, bất cập, chính vì vậy ngày 27/11/2015 Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua Bộ luật hình sự năm 2015 (hiệu lực thi hành từ 01/7/2016) nhưng quá trình triển khai lại thấy nhiều sai sót vì vậy Quốc hội đã lùi hiệu lực Bộ luật hình sự 2015 (nhưng vẫn áp dụng các điều các lợi cho người phạm tội). Sau khi lấy ý kiến của các cơ quan, ban ngành, đoàn thể và đông đảo người dân. Qua nhiều phiên thảo luận tại kỳ họp Quốc hội khóa 14, ngày 20/6/2017 Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2017 được thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/01/2018.
Những phân tích trên để thấy rằng thời gian để sửa đổi, bổ sung luật do những bất câp, vướng mắc ngày ngắn (tức luật liên tục thay đổi những vẫn chưa phù hợp). Do luật 2015 đã lùi hiệu lực và luật 2017 vẫn chưa có hiệu lực nên chỉ kiến nghị một số giải pháp cơ bản như sau:
+ Quá trình xây dựng luật nói chung và các quy định về các tội xâm phạm quản lý kinh tế nói riêng chúng ta cần tìm ra nguyên nhân phát sinh tội phạm ví dụ: phần lớn là do lòng tham của người phạm tội; do quản lý yếu kém các cơ quan có liên quan; do nhận thức và kiến thức của người dân còn hạn chế; do nền kinh tế hội nhập và phát triển.
+ Phải thấy được thực tiễn các quy định đang được thực thi và có tổng kết, đánh giá cụ thể có những vướng mắc gì...
+ Người làm luật phải thấy và dự báo những hành vi có thể xảy ra trong tương lai mà dự liệu, ví dụ: khi ta gia nhập WTO thì các lộ trình thực hiện cam kết về thuế, về thị trường…
+ Thay đổi về cách thức xây dựng luật, cụ thể Quốc hội phải là cơ quan làm luật thực sự không giao về cho các bộ, ngành...sẽ có nhiều hạn chế nhất định (nhất là sự vướng mắc, mâu thuẫn giữa các điều luật trong cùng bộ luật).
+ Về cơ chế lấy ý kiến và phản biện cũng vậy: thực tiễn cho thấy gần đây trong quá trình xây dựng luật Quốc hội đã tổ chức lấy ý kiến rộng rãi như: ý kiến của các cơ quan, ban ngành, đoàn thể và đông đảo người dân. Điều này thể hiện tính dân chủ và đảm bảo nhiều người được thảo luận…Tuy nhiên như vậy là không phù hợp, bởi lẽ: khi lấy ý kiến nhiều người quá sẽ khó khăn trong việc chọn lọc những ý kiến có giá trị đóng góp (nhiều trường hợp thực tế có một số ý kiến được lập lại nhiều lần). Vì vậy chỉ nên phân tích thực tiễn pháp luật hiện hành, tham khảo các luật tiến bộ và phân tích vào tình hình cụ thể của đất nước, của nền kinh tế…Trong quá trình xây dựng luật chỉ cần tổ chức lấy ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học luật, các cơ quan có liên quan. Có những kênh và cách thức nhân dân nên góp ý phù hợp như có những địa chỉ góp ý, bảng câu hỏi…Nhằm đảm bảo ý kiến góp ý và cơ chế phản biện phù hợp.
[1] Nguyễn Ngọc Chí, Hoàn thiện các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trước yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008).
[2] Lê Văn Cảm, Sách chuyên khảo Sau đại học, Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (Phần chung), 2005, NXB ĐH Quốc gia Hà Nội, tr.287.
[3] Khoản 1, Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[4] Cao Thị Oanh, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần các tội phạm (Dùng cho sinh viên các trường đại học chuyên ngành luật, an ninh, công an), Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2010, tr75.
[5] Nguyễn Ngọc Chí, Hoàn thiện các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trước yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24, 2008, tr76.
[6] Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tài liệu tập huấn BLHS năm 2015, Hà Nội, 2016, tr93 - 94.
[7] Khoản 2 Điều 198 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[8] Bộ tư pháp, Chuyên đề 6 Những điểm mới cơ bản của chương XVIII dự thảo bộ luật hình sự sửa đổi về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, http://www.bqllang.gov.vn/danh-sach-khach-vieng/142-du-thao-bo-luat-hinh-su-sua-doi/4102-chuyen-de-6-nhung-diem-moi-co-ban-cua-chuong-xviii-du-thao-bo-luat-hinh-su-sua-doi-ve-cac-toi-xam-pham-trat-tu-quan-ly-kinh-te.html, [truy cập ngày 06/9/2017].
[9] Lượng hóa là làm cho cụ thể ra bằng số lượng những đơn vị xác định để có thể đo đếm được.
[10] Đây là một trong những hình thức kinh doanh trái phép bị xử lý hình sự. Mặc dù BLHS năm 2015 đã bỏ Điều 159 – Tội kinh doanh trái phép, nhưng một số hành vi kinh doanh trái phép ở một số lĩnh vực vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự, như Điều 227. Tội vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên quy định: “1. Người nào vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên trong đất liền, hải đảo, nội thủy, vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa và vùng trời của Việt Nam mà không có giấy phép hoặc không đúng với nội dung giấy phép thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
CHUYÊN ĐỀ 3
Những bất cập và giải pháp về mặt lập pháp của nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
Các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm hại nền kinh tế quốc dân, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích Nhà nước, của các tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thông qua hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế.
- Khách thể: Các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế xâm phạm đến các quan hệ xã hội đảm bảo cho sự ổn định và phát triển nền kinh tế quốc dân.
- Khách quan: mặt khách của nhóm các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế được thể hiện ở các hành vi cố ý vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý Nhà nước ở các mức độ khác nhau với mục đích vụ lợi.
Hành vi phạm tội được thực hiện có thể là hành động hoặc không hành động.
Hậu quả đối với một số tội là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm.
- Chủ thể: Chủ thể của nhóm tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự. Trong một số tội, chủ thể phải là chủ thể dặc biệt (có chức vụ, quyền hạn nhất định trong các cơ quan, tổ chức kinh tế). Ngoài ra, Với BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) thì pháp nhân thương mại cũng có thể là chủ thể của nhóm các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
- Chủ quan: các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp hoặc gián tiếp.
Tất cả hình phạt chính đều được áp dụng đối với các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, bao gồm: phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù, tử hình.
Trong từng điều luật được chia nhỏ thành nhiều khung hình phạt với những tình tiết định khung cụ thể.
Hình phạt bổ sung được quy định tại một khoản độc lập của từng điều luật, bao gồm: phạt tiền; cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; tịch thu tài sản.
Hình phạt đối với pháp nhân thương mại dược áp dụng gồm: phạt tiền; đình chỉ hoạt động có thời hạn; đình chỉ hoạt động vĩnh viễn; cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; cấm huy động vốn; các biện pháp tư pháp.
Nhóm các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế quy định trong BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) được quy định từ Điều 188 đến Điều 216, bao gồm 29 điều luật, được chia thành 2 nhóm nhỏ, đó là: các tội phạm trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại; các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm.
Nhóm các tội phạm trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại được quy định từ Điều 188 đến Điều 199, gồm 12 Điều luật:
- Tội buôn lậu (Điều 188).
- Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tê qua biên giới (Điều 189).
- Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm (Điều 190).
- Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm (Điều 191).
- Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 192).
- Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm (Điều 193).
- Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 194).
- Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều 195).
- Tội đầu cơ (Điều 196).
- Tội quảng cáo gian dối (Điều 197).
- Tội lừa dối khách hàng (Điều 198).
- Tội vi phạm các quy định về cung ứng điện (Điều 199).
Nhóm các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm được quy định từ Điều 200 đến Điều 216, gồm 17 điều luật:
- Tội trốn thuế (Điều 200).
- Tội cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự (Điều 201).
- Tội làm, buôn bán tem giả, vé giả (Điều 202).
- Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước (Điều 203).
- Tội vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước (Điều 204).
- Tội lập quỹ trái phép (Điều 205).
- Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng (Điều 206).
- Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả (Điều 207).
- Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành công cụ chuyển nhượng giả hoặc các giấy tờ có giá giả khác (Điều 208).
- Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán (Điều 209).
- Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán (Điều 210).
- Tội thao túng thị trường chứng khoán (Điều 211).
- Tội làm giả tài liệu trong hồ sơ chào bán, niêm yết chứng khoán (Điều 212).
- Tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm (Điều 213).
- Tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp (Điều 214).
- Tội gian lận bảo hiểm y tế (Điều 215).
- Tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động (Điều 216).
Từ khi BLHS năm 1999 được ban hành đến nay tình hình kinh tế, xã hội của Việt Nam đã có những thay đổi cơ bản về cơ chế quản lý kinh tế. Nền kinh tế thị trường định hướng định hướng XHCN của nước ta đã có những bước phát triển quan trọng, từng bước hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và đã mang lại những lợi ích to lớn, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết, trong đó có vấn đề đấu tranh phòng chống tội phạm. BLHS năm 1999 nhìn chung vẫn là sản phẩm mang đậm dấu ấn của thời kỳ đầu của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, do vậy, chưa thực sự phát huy tác dụng trong việc bảo vệ và thúc đẩy các nhân tố tích cực của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển một cách lành mạnh. Nhiều quy định trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) không còn phù hợp với thể chế và yêu cầu phát triển của nền kinh tế hiện nay cũng như trong tương lai, một số quy định trở thành rào cản, kìm hãm sự phát triển kinh tế và không phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013 (như tội kinh doanh trái phép) hoặc không phù hợp với cơ chế mới (như tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế...). Thực tiễn cũng cho thấy có những tội danh quy định không rõ ràng về hành vi, dễ bị lạm dụng xử lý (như Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng); nhiều tội phạm có quy định các tình tiết định tội, định khung không cụ thể nên khó áp dụng trong thực tế. Mặt khác, nhiều tội phạm mới phát sinh trong quá trình vận hành nền kinh tế chưa được kịp thời bổ sung hoặc tuy đã được bổ sung, nhưng chưa đầy đủ, toàn diện, nhất là các tội phạm trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, thương mại, tài chính, ngân hàng, thuế, bảo hiểm, chứng khoán… Những hạn chế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của nền kinh tế cũng như hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và đòi hỏi cần phải tiếp tục hoàn thiện BLHS để góp phần bảo vệ và thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Việc sửa đổi, bổ sung các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nhằm đáp ứng hai mục tiêu sau:
Thứ nhất, mục tiêu quan trọng của việc sửa đổi, bổ sung BLHS lần này là xây dựng BLHS phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước sau Hiến pháp năm 2013, phát huy hơn nữa vai trò của BLHS với tư cách là công cụ pháp lý sắc bén, hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa phát triển đúng hướng, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường xã hội và môi trường sinh thái an toàn, lành mạnh cho mọi người dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của nước ta.
Thứ hai, thể chế hóa đầy đủ, toàn diện các chủ trương, đường lối của Đảng thể hiện trong các văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng, Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách Tư pháp đến năm 2020, đặc biệt là chủ trương: "Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", "Quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế".
Một là, hình thức đình chỉ hoạt động vĩnh viễn đối với pháp nhân tại điểm đ khoản 6 Điều 188, điểm d khoản 5 Điều 189, điểm d khoản 5 Điều 190, điểm d khoản 5 Điều 191, điểm đ khoản 6 Điều 195 là chưa phù hợp. Bởi lẽ, vĩnh viễn không hoạt động nữa thì pháp nhân sẽ chây ỳ trong việc khắc phục hậu quả; mặt khác phải có lối thoát cho họ một khi họ khắc phục hậu quả và nộp tiền phạt nghiêm chỉnh. Đồng thời, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn đối với pháp nhân còn ảnh hưởng rất lớn đến việc làm của người lao động, đặc biệt đối với pháp nhân là các doanh nghiệp lớn. .
Giải pháp: Nên thay quy định hình phạt đình chỉ hoạt động vĩnh viễn đối với pháp nhân bằng một hình thức đình chỉ có thời hạn và tăng mức phạt tiền lên để khuyến khích pháp nhân khắc phục hậu quả và hoạt động trở lại.
Hai là, theo quy định của Luật dược 2016 thì khái niệm thuốc đã bao gồm thuốc nhằm mục đích phòng bệnh, chữa bệnh nhưng không bao gồm nguyên liệu làm thuốc, trong khi đó, thực tiễn hiện nay hành vi sản xuất buôn bán hàng giả là nguyên liệu làm thuốc diễn ra ngày càng phổ biến, phức tạp gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người sử dụng.
Giải pháp: Nên sửa tiêu đề và hành vi vi phạm quy định tại Điều 194 thành “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc và nguyên liệu làm thuốc” để tránh bỏ lọt tội phạm và phù hợp, thống nhất với những hành vi bị nghiêm cấm tại Điều 6 Luật dược 2016
Ba là, tại Điều 196 quy định về tội đầu cơ: trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa cạnh tranh, nhiều thành phần kinh tế như hiện nay, với lượng hàng hóa dồi dào, phong phú, quá trình điều tiết nền kinh tế hiệu quả thì tình trạng khan hiếm hàng hóa không xảy ra. Thực tiễn đã chứng minh, hằng năm nước ta đều trãi qua nhiều đợt bão, lũ, hạn hán, nhưng không xảy ra tình trạng khan hiếm hàng hóa. Do đó, hành vi này không còn nguy hiểm cho xã hội. Việc quy định tội đầu cơ chưa đảm bảo hành lang pháp lý an toàn cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như quyền tự do kinh doanh của chủ thể. Tạo ra khả năng tùy tiện trong giải thích và áp dụng luật đối với hành vi mua vét hàng hóa nhằm bán lại thu lợi bất chính.
Giải pháp: Phi hình sự hóa tội đầu cơ.
Bốn là, Điều 197 BLHS 2015 chưa quy định cụ thể về “khái niệm quảng cáo gian dối” và điểm c khoản 2 điều 198 BLHS 2015 hành vi “dùng thủ đoạn xảo quyệt”
Giải pháp: Nên bổ sung thêm khái niệm quảng cáo gian dối và cụ thể hành vi dùng thủ đoạn xảo quyệt là như thế nào để thuận tiện hơn trong việc áp dụng.
Năm là, tại Điều 203.
- Về số lượng hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước bị coi là thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 203 BLHS năm 2015, như sau: Số lượng hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước ở dạng phôi (chưa ghi giá trị) từ 50 số đến dưới 100 số; Số lượng hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước đã ghi nội dung để nhằm thực hiện hành vi trái pháp luật từ 10 số đến dưới 30 số. Nhưng, hóa đơn dạng phôi tức là hóa đơn chưa ghi giá trị, nên không thể coi là đã gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội. Về lý luận khoa học pháp lý chứng minh, tội phạm này đòi hỏi phải có thiệt hại thực tế xảy ra.
Mặt khác, nếu hóa đơn đã ghi nội dung, nhưng giá trị chỉ 100.000 đồng/hóa đơn, thì gây thiệt hại chỉ vài triệu đồng thì thiệt hại gây ra cũng không lớn so với tình hình kinh tế xã hội hiện tại, nhưng lại xử lý hình sự có thể phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm tù là quá nặng.
Giải pháp:
Mua bán phôi hóa đơn thì trên thực tế chưa gây thiệt hại, trường hợp này nên áp dụng xử lý bằng biện pháp hành chính (phạt tiền và tiêu hủy) và cũng tránh tình trạng lạm dụng hay hình sự hóa vấn đề này của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Số lượng hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước đã ghi nội dung để nhằm thực hiện hành vi trái pháp luật từ 10 số đến dưới 30 số trong trường hợp này cần quy định rõ số tiền cụ thể là bao nhiêu trở lên để làm căn cứ. Vì nếu số tiền vi phạm chỉ vài triệu đồng thì vẫn chưa đủ làm ảnh hưởng đến tình hình xã hội hiện nay.
- Quy định về hậu quả thiệt hại tại khoản 2 Điều 203 BLHS năm 2015 được nhà làm luật xác định theo 2 cách, đó là: Căn cứ vào số lượng phôi, hóa đơn, chứng từ (chưa ghi giá trị và đã ghi giá trị); thu lợi bất chính hoặc gây thiệt hại ngân sách nhà nước (tính bằng triệu đồng) là chưa hợp lý. Sẽ gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định chính xác tình tiết định khung (điểm) nào của khoản 2 Điều luật khi áp dụng khi có một quy định về hậu quả thiệt hại mà lúc thì xác định theo số lượng phôi, hóa đơn, chứng từ lúc lại theo thiệt hại tính bằng tiền.
Giải pháp: Chỉ nên có một quy định duy nhất khi xác định hậu quả là căn cứ vào thiệt hại cụ thể được tính bằng tiền trong tất cả các trường hợp; bỏ quy định tính toán hậu quả thiệt hại theo số lượng phôi hóa đơn, chứng từ
- Chế tài xử phạt đối với pháp nhân thương mại được quy định tại khoản 4 Điều 203 BLHS năm 2015, là tương đối nhẹ hơn so với chế tài xử phạt áp dụng đối với chủ thể vi phạm là cá nhân, điều này là không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra. Bởi vi phạm của pháp nhân thương mại xét về quy mô, phạm vi ảnh hưởng hơn hẳn nhiều lần so với chủ thể khác là cá nhân.
Giải pháp: Trường hợp nếu pháp nhân thương mại phạm tội thỏa mãn quy định tại điểm b khoản 4 Điều luật này, thì mức phạt tiền là hình phạt chính được nâng lên mức cao nhất có thể, có như vậy mới bảo đảm tính răn đe và phòng ngừa chung.
Sáu là, tại Điều 204, quy định hành vi khách quan của tội phạm vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn trong thời gian tới sẽ không còn phù hợp vì xu hướng chung chắc chắn doanh nghiệp sẽ sử dụng hình thức hóa đơn đơn điện tử. Hơn nữa, pháp luật xử lý vi phạm hành chính có quy định xử phạt vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước tại Nghị định 49/2016/NĐ-CP ngày 27/5/2016 của Chính phủ, sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 109/2013/NĐ-CP, với mức xử phạt đủ để răn đe và phòng ngừa, nếu bị phát hiện.
Giải pháp: kiến nghị bãi bỏ tội này vì những quy định xử phạt hành chính về thuế đã đủ sức răn đe, ngăn ngừa vi phạm và thực hiện quan điểm của Hiến pháp 2013 và Nghị quyết 35/2016 của Chính phủ về việc không hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự cũng như việc thực hiện chủ trương Nhà nước kiến tạo, lấy doanh nghiệp là đối tượng phục vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh và phát triển.
Bảy là, tại Điều 206 (tại điểm b, d, g khoản 1 Điều 206) quy định này là không chính xác, vì đã là “những đối tượng không được cấp tín dụng theo quy định của pháp luật”, thì đã nằm trong điểm a là “Cấp tín dụng cho những trường hợp không được cấp tín dụng”. Điểm d, khoản 1 của Điều luật đã mắc phải lỗi chép lại nguyên văn một số đoạn trong Luật Các tổ chức tín dụng, mà không phản ánh được bản chất của vấn đề và nghiệp vụ, nên không chỉ khó hiểu, mà trở thành không chính xác, thậm chí là sai lầm nghiêm trọng về quy định “tổng mức dư nợ tín dụng” .Điểm g, khoản 1 của Điều luật là chưa chính xác vì Điều luật này chỉ nhằm đến phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt
Giải pháp: Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với các đối tượng quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 1 Điều này không được vượt quá 5% vốn tự có của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Điểm g nói trên cần loại trừ trường hợp quy định về hành vi làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành công cụ chuyển nhượng giả hoặc các giấy tờ có giá giả khác tại Điều 208 để tránh sự trùng lặp.
Tám là, từ điều 209-212
- Ranh giới về mức tiền gây ra hậu quả về mặt kinh tế giữa tội phạm về chứng khoán với hành vi vi phạm pháp luật hành chính quy định khó chứng minh được, việc xác định mức tiền như trên để chứng minh tội phạm theo quy định BLHS 2015 sửa đổi sẽ là vấn đề quan tâm về t́nh trạng bỏ lọt tội phạm.
Giải pháp: Để tránh tình trạng bỏ lọt tội phạm cần phải xem xét giữa các tội phạm về trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán mà Luật chứng khoán quy định có thể truy cứu trách nhiệm hình sự chưa để đảm bảo sự đồng bộ, phù hợp với nhau.
Chín là, áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính đối với một số điều luật chưa tương xứng với mức độ thiệt hại gây ra.
Giải pháp: nếu định hướng của nhà lập pháp là xác định hình phạt chính cho các tội phạm về trật tự quản lý kinh tế là phạt tiền thì phải xác định rõ luôn phần tổn thất gián tiếp gây ra cho xã hội, cho các chủ thể có quyền và lợi ích liên quan và tăng mức phạt tiền lên số lớn hơn.
Mười là, tại một số điều luật (Điều 212- 214) chưa giải thích rõ cấu thành các tội phạm, lại phải đợi văn bản dưới luật hướng dẫn tiếp hoặc sửa đổi bổ sung các Luật nội dung có liên quan như Luật chứng khoán, luật bảo hiểm xã hội, luật bảo hiểm thất nghiệp, luật bảo hiểm y tế, luật việc làm, luật kinh doanh bảo hiểm
Giải pháp: khi nhà lập pháp muốn hình sự hóa các tội phạm mới thì phải có phương án chỉnh sửa luật nội dung có liên quan cùng một thời điểm, nhằm để có thể áp dụng cùng lúc khi BLHS mới được thông qua, có hiệu lực thì các Luật nội dung cũng đã được chỉnh sửa, bổ sung. Tránh tình trạng luật đợi luật, luật đợi văn bản dưới luật rồi mới thi hành được. Điều này làm cho mất đi ý nghĩa thực sự của thời điểm có hiệu lực thi hành các bộ luật, luật mới.
Mười một là, nhà lập pháp chưa dự liệu đến tình huống nếu hình phạt tiền không thi hành được thì có thể hoán đổi thành hình phạt tù.
Giải pháp
- Xác minh điều kiện thi hành án (sự minh bạch của cơ quan thi hành án) có đảm bảo khách quan, vô tư.
- Người phạm tội biết mình sẽ có ngày bị phát hiện nên đã sớm tẩu tán tài sản, ‘giả bộ sống nghèo khổ’ – thỏa điều kiện ở phần chung là ‘hình phạt tiền có xét đến hoàn cảnh kinh tế của người phạm tội’.
- Việc cho phép chuyển đổi hay không còn phụ thuộc vào việc nhà lập pháp vẫn giữ ý 1 hay sửa được ý 1: nghĩa là quy định dấu hiệu chính cấu thành tội phạm là có gây ra tổn thất hoặc thu lợi bất chính là một số tiền A đủ lớn (1 tỷ trở lên...). Nghĩa là nếu không sửa theo kiến nghị 1 thì có cho phép chuyển đổi hình phạt hay không chuyển đổi hình phạt cũng không quan trọng lắm. Ngược lại nếu sửa kiến nghị 1 thì cho chuyển đổi hình phạt là hợp lý. Đương nhiên, việc chuyển đổi hình phạt từ phạt tiền sang phạt tù chỉ áp dụng hạn chế: chỉ nên áp dụng đối với đối tượng phạm tội tái phạm 1 lần, hoặc tái phạm nguy hiểm, hoặc phạm tội lần đầu mà gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng; còn đối tượng ‘có hoàn cảnh kinh tế khó khăn’ thì phải có cơ chế giám sát- đánh giá khả năng thi hành án của người phạm tội thật sự khách quan, vô tư, tránh để lạm dụng mà gây ra bất công, tùy tiện.
Mười hai là, tại Điều 216: tại khoản 1 Điều 216 quy định hành vi vi phạm khi “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm” thì mới thỏa điều kiện áp dụng khoản 1 Điều 216 này. Vậy sẽ bỏ lọt tội phạm trong trường hợp rơi vào điểm a và điểm b Khoản 1 Điều 216 nhưng chưa bị xử phạt hành chính lần nào thì sẽ không bị xử lý.
Giải pháp: bỏ cụm từ “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”.
CHUYÊN ĐỀ 4
NHỮNG BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP VỀ MẶT LẬP PHÁP CỦA NHÓM CÁC TỘI PHẠM KINH TẾ KHÁC TRONG BLHS 2015
Quản lý hoạt động kinh tế nhằm mục đích sản xuất nhiều hàng hóa, tạo điều kiện phát triển xã hội, đồng thời điều chỉnh các hoạt động kinh tế theo trật tự của giai cấp thống trị là đòi hỏi khách quan của bất kỳ nhà nước nào. Vai trò bảo vệ trật tự quản lý kinh tế của nhà nước thuộc về Luật Hình sự bằng cách qui định tội phạm và hình phạt áp dụng đối với người có hành vi xâm hại đến trật tự quản lý kinh tế khác. Việc qui định các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế khác phải hướng tới mục đích thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh, hạn chế tiêu cực trong hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, thực tế không phải lúc nào cũng có sự phù hợp giữa các qui phạm pháp luật hình sự với đời sống kinh tế và yêu cầu quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh tế khác. Vì vậy, để góp phần hoàn thiện chính sách hình sự, bài viết này đề cập đến việc hoàn thiện các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế khác trong bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017 như sau:
Điều 217. Tội vi phạm quy định về cạnh tranh
1. Người nào trực tiếp tham gia hoặc thực hiện các hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh thuộc một trong các trường hợp sau đây, thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho người khác từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh; (6)
b) Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận; (7)
c) Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh khi các bên tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan 30% trở lên thuộc một trong các trường hợp:
(1) thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
(2) thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, nguồn cung dịch vụ;
(3) thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hàng hóa, dịch vụ;
(4) thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;
(5) thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
c) Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường hoặc vị trí độc quyền thị trường;
d) Thu lợi bất chính 5.000.000.000 đồng trở lên;
đ) Gây thiệt hại cho người khác 3.000.000.000 đồng trở lên.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:
a) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ
1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng;
b) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ
3.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 02 năm;
c) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm kinh doanh, hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.
Cạnh tranh có vai trò là động lực cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường nên bảo vệ cạnh tranh là hết sức cần thiết làm tiền đề cho sự phát triển của kinh tế đất nước. Khi cạnh tranh trên thị trường được bảo vệ một cách tốt nhất sẽ đảm bảo cho sự vận hành hiệu quả của nền kinh tế. Chính vì vậy, bảo vệ cạnh tranh và phát triển nền kinh tế thị trường là mục tiêu quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế của đất nước đã được Đảng và Nhà nước ta đề ra và được quy định cụ thể tại các Điều 51 và 52, Hiến pháp năm 2013.
Mặc dù các hành vi phản cạnh tranh đã được quy định và kiểm soát theo Luật Cạnh tranh năm 2004 nhưng từ thực tiễn thực thi cho thấy cần phải có những hình thức xử lý hoặc chế tài có tính răn đe cao hơn nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cạnh tranh, từ đó tăng cường các hoạt động cạnh tranh hiệu quả trên thị trường. Với ý nghĩa đó, việc bổ sung tội danh liên quan đến hành vi xâm hại cạnh tranh vào Bộ luật hình sự là cần thiết và phù hợp.
Thực tiễn, xử lý bằng các chế tài hình sự đối với các cá nhân, tổ chức có hành vi xâm phạm cạnh tranh từ lâu đã được nhiều nước áp dụng và hiện nay đang trở thành một xu thế chung trên thế giới. Vì vậy, áp dụng chế tài hình sự để xử lý đối với hành vi xâm hại cạnh tranh tại Việt Nam càng mang nhiều ý nghĩa và có tính thời đại. Hơn nữa việc quy định xử lý hình sự đối với các hành vi xâm hại cạnh tranh tại Việt Nam cũng đã đến độ chín muồi.
Tuy nhiên nội dung quy định tại Điều 217. Tội vi phạm quy định về cạnh tranh
hiện tại còn nhiều bất cập và thiếu tính khả thi. Cụ thể như sau:
Một là, việc quy định các hành vi phạm tội theo Khoản 1, Điều 217 là không khả thi, không phù hợp với Luật cạnh tranh năm 2004. Theo quy định tại Điều 118, Luật Cạnh tranh, doanh nghiệp nếu thực hiện hành vi vi phạm (thực hiện một hoặc một số hành vi thoả thuận bị cấm nêu trên) sẽ bị xử phạt tiền tối đa lên đến 10% tổng doanh thu trong năm tài chính (của doanh nghiệp vi phạm) trước năm thực hiện hành vi vi phạm. Có sự chồng chéo về khung hình phạt giữa Luật cạnh tranh năm 2004 và BLHS năm 2015, sửa đổi năm 2017.
Hai là, nội dung “Điều 217. Tội vi phạm quy định về cạnh tranh” nhưng chỉ tựu trung tại “Mục 1. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh”, chủ yếu tại Điều 8, Điều 9 Luật cạnh tranh năm 2004 là chưa bao hàm hết việc kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh như đã quy định trong chương 2 của Luật Luật cạnh tranh năm 2004. BLHS năm 2015, sửa đổi năm 2017 chưa thấy đề cập đến “ Khoản 8. Thông đồng để một hoặc các bên của thỏa thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ”, Điều 8, Luật cạnh tranh năm 2004.
Ba là, việc quy định phạt tiền đối với pháp nhân thương mại so với cá nhân là mức phạt quá hà khắc mà trên thế giới chưa có tiền lệ, có thể làm cho pháp nhân bị phá sản. Điều này không những ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống người lao động mà còn làm xáo trộn thị trường, và nghiêm trọng hơn có thể xáo trộn cả nền kinh tế.
* Về nhóm hành vi phản cạnh tranh cần xử lý hình sự
Trong thực tiễn, các dạng hành vi phản cạnh tranh là khá đa dạng nhưng tựu chung được phân thành nhóm hành vi hạn chế cạnh tranh (trong đó bao gồm các hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh, các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền, và các hành vi tập trung kinh tế) và nhóm hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của Luật Cạnh tranh.
Như đã phân tích ở trên, việc xử lý hình sự đối với các hành vi xâm hại cạnh tranh là cần thiết. Tuy nhiên, căn cứ trên bản chất và tính nguy hại đối với cạnh tranh, đối với người tiêu dùng nói riêng, và đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung cũng như xuất phát nhu cầu của hoạt động kiểm soát đối với các hành vi phản cạnh tranh trên thực tiễn thì trong giai đoạn trước mắt, chỉ nên áp dụng chế tài hình sự để xử lý đối với bốn dạng hành vi phản cạnh tranh sau:
Đây cũng chính là bốn dạng hành vi phản cạnh tranh được nhiều nước trên thế giới áp dụng các chế tài hình sự để xử lý. Lý do là bởi chúng là những dạng hành vi xâm hại cạnh tranh với mức độ nguy hại nhất. Đồng thời bốn dạng hành vi này thuộc nhóm các hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh – một dạng hành vi phản cạnh tranh mà việc đấu tranh, phát hiện để xử lý là khó khăn nhất.
Nhiều chuyên gia và cơ quan cạnh tranh trên thế giới cho rằng những hành vi này có tính chất nguy hại hơn cả hành vi trộm cắp bởi việc trộm cắp thường có phạm vi ảnh hưởng hẹp, tới một hoặc một vài cá nhân và những thiệt hại vật chất do hành vi trộm cắp gây ra thường không lớn. Trong khi đó, các hành vi thoả thuận nêu trên thường có phạm vi tác động và ảnh hưởng lớn, thậm chí tới toàn xã hội, và những thiệt hại vật chất gây ra cũng thường rất lớn. Thậm chí nguy hại hơn nữa là ở việc các cá nhân, tổ chức thực hiện các hành vi này để trục lợi trong khi những người bị trục lợi lại thường không hay biết hoặc không nhận biết được do tính chất bí mật hay bất minh của hành vi mà các chủ thể tham gia thường hướng tới.
* Về đối tượng cần xử lý hình sự
Theo quy định tại Điều 118, Luật Cạnh tranh, doanh nghiệp nếu thực hiện hành vi vi phạm (thực hiện một hoặc một số hành vi thoả thuận bị cấm nêu trên) sẽ bị xử phạt tiền tối đa lên đến 10% tổng doanh thu trong năm tài chính (của doanh nghiệp vi phạm) trước năm thực hiện hành vi vi phạm.
Từ thực tiễn điều tra và xử lý đối với những hành vi trên trong thời gian qua của cơ quan cạnh tranh cho thấy hình thức và mức độ xử lý như hiện tại theo quy định của Luật Cạnh tranh là phù hợp, đã đảm bảo tính răn đe, sự nghiêm minh của pháp luật và có sự phù hợp với thông lệ quốc tế. Vì vậy, việc quy định xử lý hình sự đối với doanh nghiệp (pháp nhân) vi phạm là không cần thiết. Bên cạnh đó, Luật Cạnh tranh cũng đã quy định một cách chi tiết, cụ thể các thủ tục tố tụng, quy trình điều tra và xử lý đối với chủ thể vi phạm là các doanh nghiệp. Vì vậy, các cơ quan cạnh tranh đã có đủ cơ sở pháp lý và công cụ cần thiết nhằm xử lý một cách hiệu quả và triệt để đối với doanh nghiệp vi phạm.
Điều cần thiết hơn hiện nay và cũng là điều mà Luật Cạnh tranh hiện đang còn thiếu, chưa quy định đó là việc xử lý đối với các cá nhân trực tiếp tham gia vào hoặc thực hiện các hành vi thoả thuận nêu trên. Chỉ khi nào những cá nhân trực tiếp tham gia vào hoặc thực hiện các hành vi thoả thuận trên đây bị quy trách nhiệm (mang tính cá nhân) và bị xử lý một cách thích đáng thì tính răn đe của pháp luật mới được tăng cường, và từ đó hiệu quả thực thi mới được nâng cao.
Điều 218. Tội vi phạm quy định về hoạt động bán đấu giá tài sản
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho người khác từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Lập danh sách khống về người đăng ký mua tài sản bán đấu giá;
b) Lập hồ sơ khống, hồ sơ giả tham gia hoạt động bán đấu giá tài sản;
c) Thông đồng dìm giá hoặc nâng giá trong hoạt động bán đấu giá tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Có tổ chức;
b) Thu lợi bất chính 200.000.000 đồng trở lên;
c) Gây thiệt hại cho người khác 300.000.000 đồng trở lên;
d) Phạm tội 02 lần trở lên;
đ) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Thứ nhất, chỉ liệt kê hành vi vi phạm quy định về bán đấu giá tài sản từ góc độ của người tham gia đấu giá. Điều 218 đã liệt kê 3 hành vi vi phạm quy định về bán đấu giá tài sản từ góc độ của người tham gia đấu giá, gồm (1) Lập danh sách khống về người đăng ký mua tài sản bán đấu giá; (2) Lập hồ sơ khống, hồ sơ giả tham gia hoạt động bán đấu giá tài sản; (3) Thông đồng dìm giá hoặc nâng giá trong hoạt động bán đấu giá tài sản. Song trên thực tế, các hành vi trục lợi từ hoạt động bán đấu giá tài sản hiện nay không chỉ giới hạn tại các hành vi đó và đặc biệt là có yếu tố gian lận từ đơn vị tổ chức đấu giá.
Thứ hai, tội về đấu giá thì liệt kê 3 hành vi rất chi tiết nhưng có nguy cơ thiếu sót. Hoạt động đấu giá và đấu thầu có nhiều nét tương đồng với nhau nhưng việc mô tả hành vi của hai tội danh này khác hẳn nhau. Tội về đấu giá thì liệt kê 3 hành vi rất chi tiết nhưng có nguy cơ thiếu sót, còn tội về đấu thầu thì mô tả hành vi rất chung chung như "thông thầu, gian lận trong đấu thầu, vi phạm quy định của pháp luật về bảo đảm công bằng, minh bạch trong hoạt động đấu thầu". Cách thể hiện của Tội về đấu thầu (Điều 222) phù hợp hơn. Tuy nhiên, sau này vẫn cần có hướng dẫn cụ thể nhằm xác định chính xác các hành vi gian lận, hay không công bằng, minh bạch trong các hoạt động này.
Thứ ba, khung hình phạt còn quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe tội phạm.
Thứ nhất, bổ sung thêm hành vi gian lận từ đơn vị tổ chức đấu giá
Thứ hai, chỉ cần quy định chung là có hành vi vi phạm quy định về bán đấu giá tài sản không nên quy định chi tiết vì càng vi định chi tiết thì càng thiếu sót.
Thứ ba, nâng cao khung hình phạt từ bằng hoặc trên khung hình phạt quy định về tội cố ý làm trái quy định của nhà nước trong quản lý kinh tế, gây hậu quả nghiêm trọng theo BLHS năm 1999 vì thực chất điều 218 là cụ thể hóa tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước trong quản lý kinh tế, gây hậu quả nghiêm trọng tại Điều 165 BLHS năm 1999 trong hoạt động bán đấu giá tài sản. Tuy nhiên khác với quy định về tội cố ý làm trái quy định của nhà nước trong quản lý kinh tế, gây hậu quả nghiêm trọng, trong cấu thành của tội này không chỉ quy định hậu quả thiệt hại gây ra cho người khác (từ 50 triệu đồng trở lên) mà hoặc là thu lợi bất chính từ 30 triệu đồng trở lên cũng đã cấu thành tội phạm. Mặc khác khung hình phạt nhẹ hơn rất nhiều so với tội cố ý làm trái quy định của nhà nước trong quản lý kinh tế, gây hậu quả nghiêm trọng (khung cơ bản quy định mức tối thiểu là phạt tiền 20 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 2 năm, khung hình phạt cao nhất là phạt tiền từ 200 triệu đồng đến 1 tỷ đồng hoặc phạt từ 1 -5 năm tù, so với khung khởi điểm của Điều 165 BLHS năm 1999 là cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 1 năm đến 5 năm; khung hình phạt cao nhất là từ 10 năm đến 20 năm tù).
Điều 219. Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí
1. Người nào được giao quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước mà vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản, gây thất thoát, lãng phí từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm:
a) Vì vụ lợi;
b) Có tổ chức;
c) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
3. Phạm tội gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Thứ nhất là cùng một hành vi trong cùng một điều luật nhưng tại khoản 1 thì sử dụng thuật ngữ “gây thất thoát, lãng phí” còn tại khoản 2, 3 lại sử dụng thuật ngữ “gây thiệt hại về tài sản” trong khi đó tinh thần của điều luật là gây thất thoát, lãng phí.
Thứ hai là về hình phạt có sự trùng lấp dẫn đến áp dụng tùy tiện: khoản 1 (từ 1 đến 5 năm), khoản 2 (từ 3 đến 15 năm), khoản 3 (từ 10 đến 20 năm).
Ví dụ: 1 người phạm tôi ở khoản 3 có thể bị phạt tù 10 năm, nhưng 10 năm là khung hình phạt của khoản 2.
Thứ nhất, theo chúng tôi nên sử dụng thuật ngữ “gây thất thoát, lãng phí ” để đảm bảo tính thống nhất.
Thứ hai, quy định khung hình phạt có tính kế tiếp không trùng lấp
Ví dụ: khoản 1 (từ 1 đến 5 năm), khoản 2 (từ 6 đến 15 năm), khoản 3 (từ 16 đến 20 năm).
Điều 220. Tội vi phạm qui định của Nhà nước về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng
1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong những hành vi sau đây gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 224 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Vi phạm quy định về quyết định chủ trương đầu tư;
b) Vi phạm quy định về lập, thẩm định chủ trương đầu tư;
c) Vi phạm quy định về quyết định đầu tư chương trình, dự án;
d) Vi phạm quy định về tư vấn, thiết kế chương trình, dự án.
2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm:
a) Vì vụ lợi;
b) Có tổ chức;
c) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
d) Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
3. Phạm tội gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Về hình phạt có sự trùng lấp dẫn đến áp dụng tùy tiện: khoản 1 (từ 1 đến 5 năm), khoản 2 (từ 3 đến 15 năm), khoản 3 (từ 10 đến 20 năm).
Ví dụ: 1 người phạm tôi ở khoản 3 có thể bị phạt tù 10 năm, nhưng 10 năm là khung hình phạt của khoản 2.
Về hình phạt quy định mang tính liên tiếp không trùng lấp dẫn đến áp dụng tùy tiện: khoản 1 (từ 1 đến 5 năm), khoản 2 (từ 6 đến 15 năm), khoản 3 (từ 16 đến 20 năm).
Điều 221. Tội vi phạm quy định của Nhà nước về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng
1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong những hành vi sau đây, gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Giả mạo, khai man, thỏa thuận hoặc ép buộc người khác giả mạo, khai man, tẩy xóa tài liệu kế toán;
b) Dụ dỗ, thỏa thuận hoặc ép buộc người khác cung cấp, xác nhận thông tin, số liệu kế toán sai sự thật;
c) Để ngoài sổ kế toán tài sản của đơn vị kế toán hoặc tài sản liên quan đến đơn vị kế toán;
d) Huỷ bỏ hoặc cố ý làm hư hỏng tài liệu kế toán trước thời hạn lưu trữ quy định của Luật kế toán;
đ) Lập hai hệ thống sổ kế toán tài chính trở lên nhằm bỏ ngoài sổ kế toán tài sản, nguồn vốn, kinh phí của đơn vị kế toán.
2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm:
a) Vì vụ lợi;
b) Có tổ chức;
c) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
d) Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
3. Phạm tội gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Về hình phạt có sự trùng lấp dẫn đến áp dụng tùy tiện: khoản 1 (từ 1 đến 5 năm), khoản 2 (từ 3 đến 15 năm), khoản 3 (từ 10 đến 20 năm).
Ví dụ: 1 người phạm tôi ở khoản 3 có thể bị phạt tù 10 năm, nhưng 10 năm là khung hình phạt của khoản 2.
Về hình phạt quy định mang tính liên tiếp không trùng lấp dẫn đến áp dụng tùy tiện: khoản 1 (từ 1 đến 5 năm), khoản 2 (từ 6 đến 15 năm), khoản 3 (từ 16 đến 20 năm).
Tóm lại: cả 3 Điều (Đ.219, Đ.220, Đ.221) luật có 1 điểm bất cập chung, sự trùng lấp về định khung hình phạt sẽ không thể hiện rõ hình phạt tương ứng với từng khung: ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Sự trùng lấp này dẫn đến sự không công bằng không nghiêm minh khi tội nghiêm trọng lại bị hình phạt thấp hơn tội ít nghiêm trọng. Chính vì vậy gây bất cập khi áp dụng pháp luật.
Hướng giải quyết: Định khung hình phạt phân định rõ ràng với từng khung, không bị trùng lấp.
Điều 222. Tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng
a) Can thiệp trái pháp luật vào hoạt động đấu thầu;
b) Thông thầu;
c) Gian lận trong đấu thầu;
d) Cản trở hoạt động đấu thầu;
đ) Vi phạm quy định của pháp luật về bảo đảm công bằng, minh bạch trong hoạt động đấu thầu;
e) Tổ chức lựa chọn nhà thầu khi nguồn vốn cho gói thầu chưa được xác định dẫn đến nợ đọng vốn của nhà thầu;
g) Chuyển nhượng thầu trái phép.
2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm:
a) Vì vụ lợi;
b) Có tổ chức;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
d) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
đ) Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
3. Phạm tội gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Theo khoản 12 Điều 4 Luật đấu thầu 2013 thì đấu thầu được hiểu đó là quá trình lựa chọn nhà thầu để kí kết và thực hiện hợp đồng cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp; lựa chọn nhà thầu để kí kết và thực hiện hợp đồng dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư, dự án đầu tư có sử dụng đất trên cơ sở bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế.
Như vậy, có thể thấy đấu thầu là quá trình chủ đầu tư lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của mình. Trong đó, bên mua sẽ tổ chức đấu thầu để bên bán (các nhà thầu) cạnh tranh nhau. Mục tiêu của bên mua là có được các hàng hóa và dịch vụ thỏa mãn các yêu cầu của mình về kỹ thuật, chất lượng và chi phí thấp nhất. Mục đích của nhà thầu là giành được quyền cung cấp hàng hóa, dịch vụ đó với giá đủ bù đắp các chi phí đầu vào và đảm bảo mức lợi nhuận cao nhất có thể. Như vậy, bản chất của đấu thầu đã được xã hội thừa nhận như một sự cạnh tranh lành mạnh để được thực hiện một việc nào đó hay một yêu cầu nào đó.
Trên thực tế, việc đấu thầu không diễn ra đúng với những quy định của pháp luật. Những vụ việc đấu thầu vi phạm pháp luật nghiêm trọng đã diễn ra nên đã được điều chỉnh cụ thể bởi luật hình sự. Tại Điều 222 BLHS quy định các trường hợp đấu thầu bị pháp luật hình sự nghiêm cấm và xử lý hình sự nếu vi phạm. Nhưng tại điều luật này lại tồn tại một số bất cập trong việc quy định có thể dẫn đến việc xử lý không nghiêm minh đối với loại tội phạm vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng. Một số bất cập tồn tại như sau:
Một là, khung hình phạt giữa các khoản 1, khoản 2 và khoản 3 có sự trùng lắp về mức hình phạt tù có thời hạn. Tại khoản 1 đó là khung hình phạt cho loại tội phạm nghiêm trọng khi thực hiện hành vi vi phạm quy định về đấu thầu với mức phạt tù là từ 1 năm đến 5 năm. Còn tại khoản 2 là khung hình phạt cho loại tội phạm rất nghiêm trọng với mức phạt tù từ 3 năm đến 12 năm. Trong khi đó, tại khoản 3 là khung hình phạt cho loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng với mức phạt tù từ 10 năm đến 20 năm. Từ đó cho thấy được, giữa các khoản có sự trùng lắp về mức phạt tù giữa các khoản. Việc quy định này sẽ dẫn đến vấn đề thiếu tính công minh trong xử lý.
Ví dụ: A thực hiện hành vi thông thầu bị xử lý theo khoản 1 Điều 222 tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng và bị phạt tù là 3 năm. B cũng phạm tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng nhưng có tình tiết tăng nặng là vì mục đích vụ lợi bị xử lý theo khoản 2 Điều 222 và bị phạt tù là 3 năm. Rõ ràng việc thực hiện hành của A và B ở hai mức độ tội phạm khác nhau nhưng lại có cùng một mức phạt, việc quy định này thiếu tính răn đe cho xã hội và thiếu công bằng trong xét xử dẫn đến việc áp dụng quy định pháp luật không được minh bạch, công minh.
Hai là, quy định hình phạt bổ sung tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản tại khoản 4 Điều 222 BLHS chưa rõ ràng. Việc quy định này không thể hiện được tính nghiêm minh của luật hình sự. Trong trường hợp này xét về câu chữ của luật có tịch một hay toàn bộ tài sản, luật không có quy định chi tiết trường hợp nào sẽ bị tịch thu một phần, trường hợp nào sẽ bị tịch thu toàn bộ để người áp dụng pháp luật, thực thi pháp thể hiện đúng tinh thần của quy định này. Dẫn đến một số hệ lụy như: gây khó khăn cho người áp dụng, thi hành pháp luật; có thể tùy tiện áp dụng xét xử theo cảm tính; thiếu công bằng trong xét xử; không thể hiện tính nghiêm minh của luật hình sự;…
Nhằm khắc phục những bất cập tồn tại về mặt lập pháp đối với tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 222) theo quan điểm cá nhân người viết đề xuất một số giải pháp như sau:
Một là, quy định lại các mức phạt tù tại các khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều 222 một cách hợp lý hơn. Cụ thể người viết đề xuất như sau: quy định giữ nguyên khung hình phạt tại khoản 1 là tù từ 1 đến 5 năm; thay đổi khung hình phạt tại khoản 2 từ mức phạt tù 3 năm đến 12 năm thành phạt tù từ 5 năm đến 12 năm; đồng thời điều chỉnh khung hình phạt tại khoản 3 là tù 10 năm đến 20 năm thành tù từ 12 năm đến 20 năm. Việc quy định lại mức hình phạt như vậy sẽ giải quyết được những bất cập tồn tại mà người viết đã đề ra. Với mục tiêu hoàn thiện pháp luật hình sự mang tính nghiêm minh, công bằng và đồng thời góp phần vào việc xét xử được chính xác với từng tội danh mà người phạm tội thực hiện.
Hai là, ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể cho từng trường hợp nào sẽ áp dụng hình phạt bổ sung là tịch thu một phần tài sản hay tịch thu toàn bộ tài sản. Từ việc ban hành văn bản hướng dẫn sẽ giải quyết được vấn đề bất cập mà người viết vừa trình bày.
Điều 223. Tội thông đồng, bao che cho người nộp thuế gây hậu quả nghiêm trọng
1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây, làm thất thoáttiền thuế phải nộp từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Thực hiện việc miễn thuế, giảm thuế, xóa nợ tiền thuế, xóa nợ tiền phạt, hoàn thuế không đúng quy định của Luật quản lý thuế và các quy định khác của pháp luật về thuế;
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm:
a) Vì vụ lợi;
b) Có tổ chức;
c) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
d) Làm thất thoát tiền thuế từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
3. Phạm tội gây thất thoát tiền thuế từ 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Theo khoản 1 Điều 4 Luật quản lý thuế 2007, sửa đổi, bổ sung 2015 thì thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Nộp thuế theo quy định của pháp luật là nghĩa vụ và quyền lợi của mọi tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tham gia quản lý thuế.
Thực tế cho thấy, không phải bất kì cá nhân, tổ chức nào cũng thực hiện tốt việc nộp thuế cho nhà nước. Vì biết được tâm lý đó một số cá nhân đã trục lợi bằng hình thức thông đồng, bao che cho người nộp thuế để nhằm hưởng một lợi ích nhất định. Nên để điều chỉnh vấn đề về thuế BLHS có mức xử lý đối với hành vi thông đồng, bao che cho người nộp thuế gây hậu quả nghiêm trọng. Nhưng việc quy định còn gặp phải một số bất cập tồn tại như sau:
Một là, việc xác định tội danh này có thể gây nhằm lẫn với tội nhận hối lộ (Điều 354). Chủ thể của tội thông đồng, bao che cho người nộp thuế gây hậu quả nghiêm trọng là chủ thể đặc biệt có chức vụ, quyền hạn nhất định và chủ thể của tội nhận hối lộ cũng là chủ thể đặc biệt. Cả hai tội danh này người phạm tội đều cùng thực hiện hành vi trong phạm vi quyền hạn và nhận lợi ích từ việc thực hiện hành vi. Vì vậy, để xác định đâu là phạm tội trong trường hợp phạm thông đồng, bao che cho người nộp thuế gây hậu quả nghiêm trọng và đâu là trường hợp phạm tội nhận hối lộ. Việc xác định nhằm lẫn hai tội danh này có thể dẫn đến hậu quả pháp lý rất nghiêm trọng và có thể bỏ lọt tội phạm. Tội thông đồng, bao che cho người nộp thuế gây hậu quả nghiêm trọng mức phạt cao nhất là tù có thời hạn đến 20 năm. Nhưng tội nhận hối lộ mức phạt cao nhất lên đến tử hình. Vì vậy, cần có một quy định rõ ràng hơn để người áp dụng pháp luật, thi hành pháp luật xác định đúng tội danh không để bỏ lọt tội phạm cũng như không xét xử sai tội.
Hai là, phạm tội trong trường hợp đồng phạm khi thực hiện thông đồng, bao che cho người nộp thuế gây hậu quả nghiêm trọng chưa được quy định để xử lý. Trong trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi này theo hình thức đồng phạm từ hai người trở lên thì quy định xử lý trường hợp này chưa có. Đồng thời, sẽ xử lý tội này theo hình thức đồng phạm trong những trường hợp cụ thể nào cũng chưa được thể hiện trong quy định của BLHS.
Nhằm khắc phục những bất cập tồn tại về mặt lập pháp đối với tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 223) theo quan điểm cá nhân người viết đề xuất một số giải pháp như sau:
Một là, cần ban hành văn bản hướng dẫn thi hành đối với Điều 223 và Điều 354. Hướng dẫn cụ thể những trường hợp nào sẽ được áp dụng xử lý theo Điều 223 và những trường hợp nào sẽ xử lý theo Điều 354. Việc ban hành văn bản hướng dẫn là rất cần thiết sẽ hạn chế được những bất cập trong thực tiễn áp dụng mà người viết vừa trình bày.
Hai là, cần ban hành văn bản hướng dẫn xử lý cho trường hợp đồng phạm thực hiện thông đồng, bao che cho người nộp thuế gây hậu quả nghiêm trọng. Khi ban hành văn bản hướng dẫn sẽ là cơ sở pháp lý vững chắc cho người thi hành, áp dụng pháp luật có cơ sở xử lý tội pháp theo đúng tội danh và đồng thời thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật hình sự.
Điều 224. Tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng
1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong những hành vi sau đây, gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Quyết định đầu tư xây dựng không đúng quy định của Luật xây dựng;
b) Lập, thẩm định, phê duyệt thiết kế, dự toán, điều chỉnh dự toán, nghiệm thu công trình sử dụng vốn của Nhà nước trái với quy định của Luật xây dựng;
c) Lựa chọn nhà thầu không đủ điều kiện năng lực để thực hiện hoạt động xây dựng;
d) Dàn xếp, thông đồng làm sai lệch kết quả lập dự án, khảo sát, thiết kế, giám sát thi công, xây dựng công trình.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm:
a) Vì vụ lợi;
b) Có tổ chức;
c) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
d) Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
3. Phạm tội gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Đây là tội danh mới lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), cũng là một trong những tội danh ra đời nhằm thay thế Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng được quy định tại Điều 165 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Việc thay thế Điều 165 bằng các tội cụ thể trong từng lĩnh vực quản lý kinh tế trong đó có tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng nhằm tránh sự tùy tiện trong áp dụng, đảm bảo sự minh bạch, tạo môi trường kinh doanh an toàn. Đây là bước tiến đáng ghi nhận của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) so với Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
Điều 225. Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan
1. Người nào không được phép của chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan mà cố ý thực hiện một trong các hành vi sau đây, xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:
a) Sao chép tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình;
b) Phân phối đến công chúng bản sao tác phẩm, bản sao bản ghi âm, bản sao bản ghi hình.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên;
d) Gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan 500.000.000 đồng trở lên;
đ) Hàng hóa vi phạm trị giá 500.000.000 đồng trở lên.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:
a) Thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng;
b) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 02 năm;
c) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.
Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) đã bổ sung thêm việc xác định chủ thể khi thực hiện các hành vi sao chép tác phẩm, bản ghi âm, bản ghi hình; phân phối đến công chúng bản sao tác phẩm, bản sao bản ghi âm, bản sao bản ghi hình mà thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng sẽ phạm tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan thay vì chỉ quy định những hành vi trên được thực hiện với quy mô thương mại như trước đây. Sự thay đổi này là một điểm tiến bộ đáng ghi nhận vì nó tạo thuận lợi hơn trong quá trình áp dụng pháp luật, bởi lẽ nếu như Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) chỉ quy định hành vi thực hiện với quy mô thương mại thì rất khó xác định như thế nào là quy mô thương mại.
So với trước đây, chủ thể của tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan chỉ là cá nhân thì Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xác định chủ thể của tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan bao gồm cả pháp nhân thương mại. Đây là quy định phù hợp với tình hình thực tế hiện nay khi mà các hành vi vi phạm pháp luật mang tính chất tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện diễn ra ngày càng tăng. Cơ chế xử phạt hành chính và bồi thường thiệt hại đối với pháp nhân thương mại như trước đây là không đủ sức răn đe, không đạt được hiệu quả cao trong hoạt động ngăn ngừa và phòng chống tội phạm. Việc quy định pháp nhân thương mại là chủ thể của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nói riêng và các tội phạm khác trong luật hình sự nói chung là phù hợp với thực tế xã hội và thể hiện sự hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hiện nay vẫn phân bố rải rác chứ chưa có sự tập trung. Ví dụ tội sản xuất, buôn bán hàng giả; tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm; tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi được quy định tại Mục 1 Các tội phạm trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại. Trong khi đó tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan; tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp được quy định tại Mục 3 Các tội phạm khác xâm phạm trật tự quản lý kinh tế thuộc Chương XVIII Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
Việc cần làm là gom các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong đó có tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan vào một nhóm để tạo lập thành một Chương riêng, độc lập trong Bộ luật hình sự. Bởi lẽ, các tội phạm này suy cho cùng đều có chung một khách thể loại đó là quyền sở hữu của cá nhân, tổ chức đối với các tài sản trí tuệ được pháp luật bảo vệ và cùng có chung loại đối tượng tác động của tội phạm là tài sản vô hình. Cách quy định này không những nâng cao vai trò, tầm quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu công nghiệp mà còn thể hiện được quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc kiên quyết đấu tranh đối với mọi hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Điều 226. Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
1. Người nào cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam mà đối tượng là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên;
d) Gây thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý 500.000.000 đồng trở lên;
đ) Hàng hóa vi phạm trị giá 500.000.000 đồng trở lên.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:
a) Thực hiện hành vi quy định tại khoản 1 Điều này với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng;
b) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 2.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 02 năm;
c) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.
So với Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có tiến bộ đáng ghi nhận trong quy định về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đó là đã quy định rõ trường hợp nào là phạm tội, tức là hành vi thu lợi bất chính từ bao nhiêu tiền, gây thiệt hại cho chủ sở hữu ở mức nào hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ bao nhiêu tiền sẽ trở thành tội phạm. Trước đây luật chỉ quy định “Người nào cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại”, điều này gây khó khăn trong quá trình xác định tội phạm vì rất khó xác định như thế nào là quy mô thương mại.
Một điểm mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là quy định chủ thể của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp bao gồm cả pháp nhân thương mại. Có thể thấy đây là một việc làm cần thiết, bởi lẽ các hành vi vi phạm pháp luật mang tính chất tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện diễn ra ngày càng tăng. Đa số là do cơ quan lãnh đạo, người đại diện của pháp nhân thương mại thực hiện vì lợi ích của pháp nhân đó hoặc trong khuôn khổ hoạt động của pháp nhân thương mại. Tuy nhiên, chế tài xử phạt đối với pháp nhân thương mại có hành vi mang tính chất tội phạm lại chỉ dừng lại ở xử phạt hành chính và bồi thường thiệt hại, vì đây không phải là chủ thể của tội phạm. Vì vậy, các chế tài này đã không đủ sức răn đe, không đạt được hiệu quả cao trong hoạt động ngăn ngừa và phòng chống tội phạm. Việc quy định pháp nhân thương mại là chủ thể của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nói riêng và các tội phạm khác trong luật hình sự nói chung là phù hợp với thực tế xã hội và thể hiện sự hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Việc quy định hình phạt đối với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cũng có sự thay đổi so với Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Theo đó, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có mức phạt nặng hơn so với Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Cụ thể, cá nhân phạm tội bị phạt từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến 3 năm thay vì 2 năm như trước đây. Phạm tội thuộc khung hai thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.000.000.000 thay vì 400.000.000 đồng đến 1.000.000.000 như trước đây.
Các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hiện nay vẫn phân bố rải rác chứ chưa có sự tập trung. Ví dụ tội sản xuất, buôn bán hàng giả; tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm; tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi được quy định tại Mục 1 Các tội phạm trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại. Trong khi đó tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan; tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp được quy định tại Mục 3 Các tội phạm khác xâm phạm trật tự quản lý kinh tế thuộc Chương XVIII Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
Việc cần làm là gom các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong đó có tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp vào một nhóm để tạo lập thành một Chương riêng, độc lập trong Bộ luật hình sự. Bởi lẽ, các tội phạm này suy cho cùng đều có chung một khách thể loại đó là quyền sở hữu của cá nhân, tổ chức đối với các tài sản trí tuệ được pháp luật bảo vệ và cùng có chung loại đối tượng tác động của tội phạm là tài sản vô hình. Cách quy định này không những nâng cao vai trò, tầm quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu công nghiệp mà còn thể hiện được quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc kiên quyết đấu tranh đối với mọi hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung và tội phạm về sở hữu công nghiệp nói riêng.
Hiện nay vẫn chưa có văn bản giải thích rõ sự khác nhau giữa hành vi thuộc mặt khách quan của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp quy định tại Điều 226 với hành vi thuộc mặt khách quan của các tội sản xuất, buôn bán hàng giả quy định tại các Điều 192, 193, 194, 195 Bộ luật hình sự. Việc ban hành văn bản giải thích để phân biệt các tội phạm này là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách để đấu tranh xử lý kịp thời đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp có dấu hiệu tội phạm đồng thời đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật một cách thống nhất trong phạm vi cả nước, góp phần vào việc xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Điều 227. Tội vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên
1. Người nào vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên trong đất liền, hải đảo, nội thủy, vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa và vùng trời của Việt Nam mà không có giấy phép hoặc không đúng với nội dung giấy phép thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Thu lợi bất chính từ nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên nước, dầu khí hoặc khoáng sản khác từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Khoáng sản trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
đ) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 1.500.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Thu lợi bất chính từ nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên nước, dầu khí hoặc khoáng sản khác 500.000.000 đồng trở lên;
b) Khoáng sản trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;
c) Có tổ chức;
d) Gây sự cố môi trường;
đ) Làm chết người;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 122% trở lên.”;
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng.
4. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:
a) Thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này, thu lợi bất chính từ nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên nước, dầu khí hoặc khoáng sản khác từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc khoáng sản trị giá từ 700.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%; thu lợi bất chính từ nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên nước, dầu khí hoặc khoáng sản khác từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc khoáng sản trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 700.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 1.500.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng;
b) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 7.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm;
c) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.
Điều 227 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi năm 2017 được Quốc hội thông qua thay thế Điều 172 Bộ luật Hình sự 1999 về chế tài Tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên đã có một bước tiến mới, vì đã cụ thể hóa làm rõ hơn khái niệm về hành vi gây ra hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng đối với loại tội phạm này. Tương ứng với mỗi hành vi vi phạm được luật định bằng số tiền cụ thể, giúp cho các cơ quan tố tụng thuận lợi hơn trong việc định tội và định khung hình phạt tương ứng.
Với mức phạt tiền như điều luật sửa đổi chỉ thực sự có tác dụng răn đe đối với các đối tượng là pháp nhân, vi phạm trong trường hợp khai thác vượt khung giấy phép được cấp. Còn cá nhân tuy số lượng khai thác đông đảo nhưng quy mô khai thác bao giờ cũng nhỏ lẻ, giá trị sản lượng khai thác không lớn, rất khó đạt tới khung giá trị luật định
Chưa quy định hành vi các đối tượng vi phạm chống trả lực lượng có chức năng quyết liệt và phi tang hiện vật…
Quy định hành vi vi phạm của các đối còn nói chung chung chưa cụ thể
Cần phải sửa đổi luật theo hướng hạ thấp giá trị tang vật vi phạm, cụ thể có khung tối thiểu từ 10.000.000 đồng trở lên hoặc thậm chí thấp hơn là có thể khởi tố xử lư h́nh sự.
Cần phải quy định tội danh cho hành vi các đối tượng vi phạm chống trả lực lượng có chức năng quyết liệt và phi tang hiện vật…
Luật hình sự cần phải quy định hành vi vi phạm của các đối tượng khai thác, trái phép vào các tội như hủy hoại môi sinh, đe dọa tính mạng người dân, trộm cắp tài sản quốc gia… Để theo đó đưa vào loại tội phạm nguy hiểm gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng để có chế tài xử lý hình sự tương thích.
Điều 228. Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
1. Người nào lấn chiếm đất, chuyển quyền sử dụng đất hoặc sử dụng đất trái với các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Để khắc phục những hạn chế trong Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi 2009, Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi 2017 có quy định tội vi phạm quy định về sử dụng đất đai (Điều 228). Mặc dù tên và các dấu hiệu pháp lý phản ánh đặc điểm hành vi khách quan của tội danh về cơ bản là không đổi, song nội dung quy định ở điều 228 Bộ luật HS 2015 đã thay đổi cơ bản theo yêu cầu của tình hình mới, cụ thể như sau:
Đã quy định mức hình phạt cho các hành vi tương ứng (cả hình phạt tù có thời hạn và mức phạt tiền);
Đã cụ thể hóa các trường hợp phạm tội như “phạm tội nhiều lần” bằng “phạm tội hai lần trở lên”;
Đã nâng mức phạt tiền đủ mạnh, có tác dụng giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế các hành vi phạm tội. Điều 228, Khoản 1: Mức phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, Khoản 2 mức phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng, Khoản 3 mức phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Những điểm mới trên cho thấy, việc quy định tại Điều 228 Bộ luật Hình sự 2015 đã đáp ứng được yêu cầu đặt ra kể cả về phương diện lý luận và thực tiễn trong tình hình mới, thể hiện một bước tiến trong quá trình lập pháp.
Tuy nhiên để áp dụng một cách thống nhất và đồng bộ, các cơ quan chức năng đặc biệt lực lượng Cảnh sát kinh tế cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
Thứ nhất, cần tiếp tục bổ sung hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật về sử dụng đất đai. Bên cạnh Bộ luật Hình sự quy định tại Điều 228 về sử dụng đất đai đất đai, trong các văn bản pháp luật khác như luật đất đai, luật nhà ở... cũng liên quan. Để thực hiện tốt các quy định của pháp luật các cơ quan chức năng phải thường xuyên rà soát, hệ thống hóa, kiểm tra các văn bản pháp luật về đất đai và các văn bản pháp luật khác có liên quan nhằm phát hiện các quy định mâu thuẫn, không phù hợp để kịp thời sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về đất đai và các chính sách pháp luật khác có liên quan. Việc giải thích pháp luật cần phải cụ thể hóa, chi tiết hóa để quá trình áp dụng và thực thi pháp luật đúng và đầy đủ tránh trường hợp lợi dụng nó để vi phạm pháp luật hoặc thực hiện các hành vi phạm tội.
Thứ hai, tham mưu cho Đảng, Nhà nước các cấp chính quyền địa phương trong phòng ngừa tội phạm vi phạm các quy định về quản lý, sử dụng đất đai. Từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật về hoạt động liên quan đến lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, khắc phục sơ hở hạn chế trong quản lý Nhà nước về đất đai, về các hoạt động giao đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, cho thuê đất, thế chấp quyền sử dụng đất, về đấu tranh phòng, chống tội phạm vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. Phối hợp với các cơ quan chuyên môn nghiệp vụ, các bộ ngành, Ủy ban nhân dân các cấp tiến hành thanh tra, kiểm tra việc quản lý, sử dụng đất đai của các tổ chức cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất...
Thứ ba, phối hợp lực lượng tuyên truyền, hướng dẫn và vận động quần chúng nhân dân phát hiện, tố giác tội phạm vi phạm các quy định về quản lý, sử dụng đất đai. Việc thông qua luật cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành, nhằm mục đích để các chủ thể quản lý, sử dụng thực hiện và chấp hành tốt các quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng đất đai. Do đó, lực lượng cảnh sát kinh tế cần phải phối hợp để tuyên truyền, hướng dẫn và động viên quần chúng nhân dân tích cực đưa ra những thông tin, tố giác tội phạm có biểu hiện liên quan đến tội phạm vi phạm các quy định về sử dụng đất đai, để từ đó lực lượng cảnh sát kinh tế trực tiếp hoặc phối hợp cùng với các cơ quan chức năng tiến hành các hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả.
Điều 229. Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai
1. Người nào lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái quy định của pháp luật thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đất trồng lúa có diện tích từ 5.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 50.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2);
b) Đất có giá trị quyền dụng đất được quy thành tiền từ 500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp;
c) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Đất trồng lúa có diện tích từ 30.000 mét vuông (m2) đến dưới 70.000 mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 50.000 mét vuông (m2) đến dưới 100.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ 40.000 mét vuông (m2) đến dưới 80.000 mét vuông (m2);
c) Đất có giá trị quyền dụng đất được quy thành tiền từ 2.000.000.000 đồng đến dưới 7.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 5.000.000.000 đồng đến dưới 15.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp;
d) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Đất trồng lúa có diện tích 70.000 mét vuông (m2) trở lên; đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích 100.000 mét vuông (m2) trở lên; đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích 80.000 mét vuông (m2) trở lên;
b) Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền 7.000.000.000 đồng trở lên đối với đất nông nghiệp hoặc 15.000.000.000 đồng trở lên đối với đất phi nông nghiệp.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Thứ nhất, mức định lượng diện tích đất vi phạm để xác định tội phạm chưa hợp lý.
Tại Khoản 1
Đất trồng lúa: 5.000 m2 – 30.000 m2
Đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, rừng sản xuất: 10.000 m2 – 50.000 m2
Đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp: 10.000 – 40.000 m2
Tại Khoản 2:
Đất trồng lúa: 30.000 m2 – 70.000 m2
Đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, rừng sản xuất: 50.000 m2 – 100.000 m2
Đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp: 40.000 m2 – 80.000 m2
Tại Khoản 3:
Đất trồng lúa: 70.000 m2 trở lên
Đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, rừng sản xuất: 100.000 m2 trở lên
Đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp: 80.000 m2 trở lên.
Như vậy có thể thấy việc căn cứ vào diện tích đất vi phạm pháp luật như trên là bất hợp lý, bởi vì giá trị của đất trồng lúa, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, rừng sản xuất thì luôn rẻ hơn giá trị của đất phi nông nghiệp (trong đó có đất ở, đất sản xuất kinh doanh…) nhưng diện tích đất vi phạm của đất trồng lúa, đất rừng đặc dụng, đất rừng đặc dụng, rừng sản xuất lại ít hơn diện tích đất phi nông nghiệp, vì vậy khi áp dụng trong thực tiễn sẽ xảy ra trường hợp hành vi phạm tội gây thiệt hại ít hơn nhưng vẫn bị xử lý hình sự, trong khi đó hành vi gây thiệt hại lớn hơn nhưng không bị xử lý hình sự.
Thứ hai, khung hình phạt của Điều luật này cũng bất hợp lý.
Khoản 1: Cải tại không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm
Khoản 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm
Khoản 3: Phạt tù từ 05 năm đến 12 năm
Như vậy có thể thấy có sự chồng chéo về khung hình phạt, mức thấp nhất của khung hình phạt này lại nhỏ hơn mức cao nhất của khung hình phạt kia. Nếu áp dụng trong thực tế sẽ gây khó khăn, khiếu nại khi hội đồng xét xử lượng hình
Một là, nên quy định lại mức diện tích đất vi phạm để xử lý hình sự theo hướng diện tích đất trồng lúa, đấ trừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất phải nhiều hơn mức diện tích đất vi phạm là đất phi nông nghiệp
Hai là, quy định rõ ràng, không chồng lấn, chồng chéo mức phạt của các khung hình phạt theo hướng mức thấp nhất của khung hình phạt này phải cao hơn mức cao nhất của khung hình phạt kia để tránh việc khiếu nại, khó khăn của hội đồng xét xử khi lượng hình.
Điều 231. Tội cố ý làm trái quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ
1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ gây thiệt hại hoặc thất thoát tiền, hàng cứu trợ từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Gây thiệt hại hoặc thất thoát tiền, hàng cứu trợ 300.000.000 đồng trở lên;
d) Gây ảnh hưởng xấu về an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Tội cố ý làm trái quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ là một tội danh đã được quy định trong điều 169 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (BLHS 1999), so với quy định mới tại điều 231 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS 2015) thì luật mới có nhiều tiến bộ hơn:
Một là, BLHS 2015 quy định rõ ràng hơn, BLHS 1999 thì quy định nếu hành vi “gây hậu quả nghiêm trọng” thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự, vậy chúng ta có thể hiểu là chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng thì chưa phải chịu trách nhiệm hình sự. Nghiêm trọng trong trường hợp này là như thế nào thì luật chưa quy định rõ, chúng ta có thể dựa vào Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT- TANDTC- VKSNDTC- BCA- BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp để xác định hậu quả như thế nào là nghiêm trọng do hành vi này gây ra. Đây là điểm tiến bộ ở BLHS 2015 mà chúng ta thấy rõ nhất.
Hai là, theo quan điểm cá nhân thì đây lại là yếu tố hạn chế của luật vì khung hình phạt của BLHS 2015 lại cân bằng giữa phạt tiền và hình phạt tù hoặc cải tạo không giam giữ.
Về hình phạt bổ sung thì giống nhau.
Theo quan điểm cá nhân thì BLHS 2015 có quy định cụ thể hơn về khoản gây thất thoát và thiệt hại mà chủ thể gây ra. Thế nhưng đây là loại tội phạm nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến danh dự của Nhà nước, cản trở quá trình cứu trợ làm ảnh hưởng đến đối tượng được nhận tiền, hàng trợ cấp. Vì vậy, kiến nghị:
Một là, tăng mức xử phạt tiền lên gấp 02 hoặc 03 lần hiện nay, vì theo khoản 1 “Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ gây thiệt hại hoặc thất thoát tiền, hàng cứu trợ từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm” thì chúng ta có thể thấy được mức phạt tiền lại thấp hơn mức mà chủ thể gây ra thiệt hại, thất thoát. Mức phạt như vậy thiết nghĩ chưa phù hợp.
Hai là, khung hình phạt của Bộ luật có nên chăng dùng từ “và” thay thế cho từ “hoặc”, tức là chủ thể vi phạm vừa chịu trách nhiệm hành chính đồng thời cũng phải chịu trách nhiệm hình sự do chính hành vi mình gây ra.
Hiện nay, tình hình loại tội phạm này không phổ biến, đối tượng được nhận trợ cấp đa phần ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo khó tiêp cận với nguồn thông tin, cơ quan giám sát cũng khó tiếp cận và quản lý khi thiên tai, tai nạn xảy ra. Đặc trưng của loại chủ thể này lại là người có chức vụ, quyền hạn nên việc thanh tra, kiểm tra cũng khó khăn không kém, như đã phân tích thì đây có thể là cá nhân hoặc một nhóm người thông đồng, bao che lẫn nhau.
Giải pháp hiện nay có thể là tuyên truyền, tạo những đường dây nóng cho nhân dân khi người dân phát hiện dấu hiệu tội phạm này gây ra, đồng thời đảm bảo an toàn tính mạng và sức khỏe cho người dân khi tố giác tội phạm. Tăng tính đạo đức, trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, đặc biệt là công tác cứu hộ, cứu trợ, nâng cao khả năng thấu hiểu về giá trị của tiền, hàng cứu trợ là gì và khi xét xử loại tội phạm này thì nên công khai, minh bạch.
Điều 232. Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 243 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Khai thác trái phép rừng sản xuất với khối lượng từ 20 mét khối (m3) đến dưới 40 mét khối (m3) gỗ loài thực vật thông thường; từ 12,5 mét khối (m3) đến dưới 25 mét khối (m3) gỗ loài thực vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
b) Khai thác trái phép rừng phòng hộ với khối lượng từ 15 mét (m3) đến dưới 30 mét khối (m3) gỗ loài thực vật thông thường; từ 10 mét khối (m3) đến dưới 20 mét khối (m3) gỗ loài thực vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
c) Khai thác trái phép rừng đặc dụng với khối lượng từ 15 mét khối (m3) đến dưới 30 mét khối (m3) gỗ loài thực vật thông thường; từ 5 mét khối (m3) đến dưới 10 mét khối (m3) gỗ loài thực vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA; thực vật thuộc Nhóm IIA trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;
d) Khai thác trái phép thực vật rừng ngoài gỗ trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
đ) Khai thác thực vật thuộc loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ, các loại thực vật khác thuộc Nhóm IA trị giá từ 30.000.000 đồng đến dưới 60.000.000 đồng hoặc từ 01 mét khối (m3) đến dưới 02 mét khối (m3) gỗ tại rừng sản xuất hoặc từ 0,5 mét khối (m3) đến dưới 1,5 mét khối (m3) tại rừng phòng hộ hoặc từ 0,5 mét khối (m3) đến dưới 01 mét khối (m3) gỗ tại rừng đặc dụng hoặc khu bảo tồn thiên nhiên;
e) Tàng trữ, vận chuyển, chế biến, mua bán trái phép từ 1,5 mét khối (m3) đến dưới 03 mét khối (m3) đối với gỗ loài nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IA hoặc gỗ có nguồn gốc từ nước ngoài của loài thuộc Phụ lục I Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã, nguy cấp hoặc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; từ 10 mét khối (m3) đến dưới 20 mét khối (m3) gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA hoặc gỗ có nguồn gốc từ nước ngoài của loài thuộc Phụ lục II Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã, nguy cấp; từ 20 mét khối (m3) đến dưới 40 mét khối (m3) gỗ loài thực vật thông thường;
g) Tàng trữ, vận chuyển, chế biến, mua bán trái phép các loài thực vật hoang dã khác trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 600.000.000 đồng;
h) Vật phạm pháp có khối lượng hoặc giá trị dưới mức thấp nhất quy định tại một trong các điểm a, b, c, d, đ hoặc e của khoản này nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Khai thác trái phép rừng sản xuất với khối lượng từ 40 mét khối (m3) đến dưới 80 mét khối (m3) gỗ loài thực vật thông thường; từ 25 mét khối (m3) đến dưới 50 mét khối (m3) gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
b) Khai thác trái phép rừng phòng hộ với khối lượng từ 30 mét khối (m3) đến dưới 60 mét khối (m3) gỗ loài thực vật thông thường; từ 20 mét khối (m3) đến dưới 40 mét khối (m3) gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
c) Khai thác trái phép rừng đặc dụng với khối lượng từ 30 mét khối (m3) đến dưới 60 mét khối (m3) gỗ loài thực vật thông thường; từ 10 mét khối (m3) đến dưới 20 mét khối (m3) gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
d) Khai thác trái phép thực vật rừng ngoài gỗ trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 400.000.000 đồng;
đ) Tàng trữ, vận chuyển, chế biến, mua bán trái phép từ 03 mét khối (m3) đến dưới 06 mét khối (m3) đối với gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IA hoặc gỗ có nguồn gốc từ nước ngoài của loài thực vật thuộc Phụ lục I Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã, nguy cấp hoặc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; từ 20 mét khối (m3) đến dưới 40 mét khối (m3) gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA hoặc gỗ có nguồn gốc từ nước ngoài của loài thực vật thuộc Phụ lục II Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã, nguy cấp; từ 40 mét khối (m3) đến dưới 80 mét khối (m3) gỗ của loài thực vật thông thường;
e) Tàng trữ, vận chuyển, chế biến, mua bán trái pháp luật các loài thực vật hoang dã khác trị giá từ 600.000.000 đồng đến dưới 1.200.000.000 đồng;
g) Phạm tội qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại;
h) Phạm tội có tổ chức;
i) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị tù từ 05 năm đến 10 năm.
a) Khai thác trái phép tại rừng sản xuất 80 mét khối (m3) trở lên gỗ loài thực vật thông thường; 50 mét khối (m3) trở lên gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
b) Khai thác trái phép tại rừng phòng hộ 60 mét khối (m3) trở lên gỗ loài thực vật thông thường; 40 mét khối (m3) trở lên gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
c) Khai thác trái phép tại rừng đặc dụng 60 mét khối (m3) trở lên gỗ loài thực vật thông thường; 20 mét khối (m3) trở lên gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA;
d) Khai thác trái phép thực vật rừng khác trị giá 400.000.000 đồng trở lên;
đ) Tàng trữ, vận chuyển, chế biến, mua bán trái phép 06 mét khối (m3) trở lên gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IA hoặc gỗ có nguồn gốc từ nước ngoài của loài thực vật thuộc Phụ lục I Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã, nguy cấp hoặc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; 40 mét khối (m3) trở lên gỗ loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIA hoặc gỗ có nguồn gốc nước ngoài của loài thực vật thuộc Phụ lục II Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã, nguy cấp; 80 mét khối (m3) trở lên gỗ loài thực vật thông thường;
e) Tàng trữ, vận chuyển, chế biến, mua bán trái pháp luật các loài thực vật hoang dã khác trị giá 1.200.000.000 đồng trở lên.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
5. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:
a) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, trừ trường hợp quy định tại điểm g khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng;
b) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm;
c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 6.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm;
d) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.
Rừng là tài sản quý giá của mỗi quốc gia do vậy nên tăng cường công tác bảo vệ rừng và phòng chống tội phạm về rừng. Vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản là hành vi khai thác trái phép cây rừng hoặc có những hành vi khác vi phạm các quy định của Nhà nước về khai thác, bảo về rừng và quản lý lâm sản như tàng trữ, vận chuyển, mua bán cây rừng và lâm sản khác.
Đây là một điều luật cũ được phát triển từ điều 175 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 Tội vi phạm các quy định vè khai thác và bảo vệ rừng. Tổng thể nhận xét thì BLHS 2015 quy định chi tiết, cụ thể hơn BLHS 1999 về vấn đề liệt kê từ giá trị cho đến khối lượng gỗ, loại rừng mà chủ thể thực hiện hành vi tác động lên và có kèm theo danh mục chi tiết các loài thực vật hoang dã nguy cấp cần được bảo vệ.
Chủ thể của loại tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, bất cứ ai có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt một độ tuổi luật định đều có thể là chủ thể của loại tội phạm này. So với BLHS 1999 thì BLHS 2015 có thêm một chủ thể đó là “pháp nhân thương mại”. Do vậy, có thể nói BLHS 2015 có khá nhiều điểm mới, bao hàm lên tất cả các đối tượng chủ thể và cho dù hậu quả gây ra như thế nào khi bị phát hiện cũng sẽ gánh chịu trách nhiệm hình sự do chính hành vi mình gây ra..
Hiện nay thì loại tội phạm này cũng không phổ biến, chủ yếu là ở những địa phương có rừng hoặc những địa phương có địa giới hành chính tiếp giáp biên giới với các quốc gia khác.
Nhìn chung mức hình phạt của loại tội phạm này còn khá nhẹ, chủ thể vi phạm là người có đầy đủ năng lực và trách nhiệm hình sự. Đây lại là lỗi cố ý, người vi phạm nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình, vì mục đích thu lại nhuận bất chính mà phạm tội, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Các hành vi phạm tội trên có thể vi phạm liên đới đến các tội danh khác như hủy hoại rừng, buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới.
Theo quan điểm cá nhân, nên chăng bỏ mức hình phạt bằng tiền và cải tạo không giam giữ đối với loại chủ thể này, thay vào đó là hình phạt bắt buộc phải phục hồi rừng, trả lại vị trí nguyên trạng, khắc phục hậu quả gây ra.
Đối với pháp nhân thương mại thiết nghĩ mức phạt tiền cũng còn quá nhẹ và luật quy định quá chung, chỉ thấy đề cập đến pháp nhân còn đối với từng cá nhân ra sao chưa thấy luật nhắc đến. Kiến nghị, nên truy cứu trách nhiệm hình sự của từng cá nhân có liên quan theo chức danh và quyền hạn, khuyến khích các hoạt động tố giác tội phạm, nên cấm kinh doanh và thu lại giấy phép kinh doanh trong trường hợp vi phạm.
Thành lập đường dây nóng tố giác tội phạm, tuyên truyền cho mọi người nắm rõ được tác dụng và lợi ích của rừng nhằm bảo vệ rừng và nguồn lợi phát sinh từ rừng.
Điều 233. Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng
1. Người nào lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Giao rừng, đất trồng rừng, thu hồi rừng, đất trồng rừng trái pháp luật từ 20.000 mét vuông (m2) đến dưới 25.000 mét vuông (m2) đối với rừng sản xuất; từ 15.000 mét vuông (m2) đến dưới 20.000 mét vuông (m2) đối với rừng phòng hộ hoặc từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 15.000 mét vuông (m2) đối với rừng đặc dụng, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 229 của Bộ luật này;
b) Cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng, đất trồng rừng trái pháp luật từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 12.500 mét vuông (m2) đối với rừng sản xuất; từ 7.500 mét vuông (m2) đến dưới 10.000 mét vuông (m2) đối với rừng phòng hộ hoặc từ 5.000 mét vuông (m2) đến dưới 7.500 mét vuông (m2) đối với rừng đặc dụng, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 229 của Bộ luật này;
c) Cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 232 của Bộ luật này;
d) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Giao rừng, đất trồng rừng, thu hồi rừng, đất trồng rừng trái pháp luật từ 25.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2) đối với rừng sản xuất; từ 20.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét vuông (m2) đối với rừng phòng hộ hoặc từ 15.000 mét vuông (m2) đến dưới 25.000 mét vuông (m2) đối với rừng đặc dụng;
d) Cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng, đất trồng rừng trái pháp luật từ 12.500 mét vuông (m2) đến dưới 17.000 mét vuông (m2) đối với rừng sản xuất; từ 10.000 mét vuông (m2) đến 15.000 mét vuông (m2) đối với rừng phòng hộ hoặc từ 7.500 mét vuông (m2) đến 12.000 mét vuông (m2) đối với rừng đặc dụng;
đ) Cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 232 của Bộ luật này.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Giao rừng, đất trồng rừng, thu hồi rừng, đất trồng rừng trái pháp luật từ 40.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng sản xuất; từ 30.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng phòng hộ hoặc từ 25.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng đặc dụng;
b) Cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng, đất trồng rừng trái pháp luật từ 17.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng sản xuất; từ 15.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng phòng hộ hoặc từ 12.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng đặc dụng.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
So với bộ luật hình sự năm 1999, thì quy định trong bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) đã có những điểm tiến bộ bởi việc đưa ra mức xác định diện tích cụ thể tương ứng với từng loại rừng nào sẽ chịu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Điều này góp phần giải quyết vấn đề khó khăn đã tồn tài bấy lâu vì chưa có căn cứ xác định trách nhiệm hình sự đối với từng loại rừng cụ thể. Tuy nhiên bên cạnh điểm tiến bộ đó, nhà làm luật vẫn còn bỏ sót một số hạn chế nhất định như sau:
Thứ nhất, cả bộ luật hình sự năm 1999 (Điều 176) và Bộ luật Hình sự năm 2015 đều quy định đối tượng của tội phạm này gồm có rừng và đất trồng rừng, theo quy định của Luật bảo vệ và phát triển Rừng năm 2004 và Điều 3 thông tư số 34/2009/TT-BNNPTNT ngày 10 tháng 06 năm 2009 cũng có giải thích cụ thể những tiêu chí xác định rừng. Đất trồng rừng có thể hiểu là đất đã có rừng trồng nhưng chưa thành rừng hoặc đất đã được quy hoạch vào mục đích lâm nghiệp. Đến khi bộ luật hình sự sửa đổi năm 2017 chỉ còn có một đối tượng tác động của tội phạm này là rừng.
Như vậy với tinh thần của các nhà làm luật hiện nay thì muốn thu hẹp phạm vi chịu trách nhiệm của nhóm tội phạm này ở, giới hạn đối tượng bị xâm hại cũng là hạn chế khách thể của tội phạm từ đó phi hình sự hóa đối với một số hành vi phạm tội.
Xét một cách tổng quan thực tế hiện nay trong tình trạng trái đất đang nóng lên do biến đổi khí hậu, các thiên tai lũ lụt hạn hán, lũ quét,… càng ngày càng xảy ra nghiêm trọng hơn.Do đó công cuộc bảo vệ rừng, trồng rừng, bảo vệ lá phối xanh của nhân loại, bảo vệ môi trường đang được Đảng và Nhà nước ta đẩy mạnh, đồng thời bảo vệ rừng, trồng rừng còn là bảo vệ các loài động vật quý hiếm hoang dã vì rừng còn là hệ sinh thái tự nhiên cung cấp nơi ở,nguồn thức ăn cho chúng.
Diện tích rừng thực tế ở nước ta là giảm theo từng năm, từ đó thiết nghĩ việc bảo vệ rừng hiện có, trồng mới nhiều diện tích rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặt dụng và ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ rừng là cần thiết phải được đặt ra. Cả hai đối tượng rừng và đất trồng rừng đều cần được bảo vệ, do đó việc bộ luật Hình sự sửa đổi năm 2017 tại Điều 56, sửa đổi điều 233 BLHS năm 2015 là chưa phù hợp.
Có thể xem xét hướng hoàn thiện quy định này như sau:
+ Khi ban hành nghị định hướng dẫn thi hành một số Điều của bộ luật hình sự năm 2017 có điều khoản hướng dẫn về điều 233 BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) thì tại điều khoản giải thích từ ngữ nên quy định theo hướng:
Rừng bao gồm rừng theo quy định của Luật bảo vệ phát triển rừng và đất trồng rừng.
Cũng nên quy định thêm thế nào là đất trồng rừng, có thể tham khảo theo quan điểm người viết như sau: Đất trồng rừng là đất đã được quy hoạch vào mục đích lâm nghiệp nhưng chưa có đủ các điều kiện để xác định là rừng.
Thứ hai, có sự chồng lấn về đối tượng chịu tác động về Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai (Điều 229 của BLHS năm 2015) và Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng (Điều 233 của BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017)
Điều 233 của BLHS năm 2015 điều chỉnh đối với hành vi vi phạm quy định về quản lý rừng, bao gồm cả diện tích rừng và đất rừng; Điều 229 điều chỉnh cả đối với hành vi vi phạm quy định về quản lý đất rừng.
Như vậy khi có hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ quyền hạn giao đất, thu hồi, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái quy định của pháp luật đất trồng rừng thì sẽ bị xử lý theo Điều 229 hay Điều 234.
Theo quan điểm người viết, các nhà làm luật nên xem xét chỉnh lý, viện dẫn loại trừ Điều 233 trong Điều 229, theo đó, các trường hợp phạm tội ở Điều 233 thì sẽ không xử lý theo quy định của Điều 229.
Điều 234. Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã
a) Săn bắt, giết, nuôi, nhốt, vận chuyển, buôn bán trái phép động vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIB hoặc thuộc Phụ lục II của Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp có giá trị từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng; động vật hoang dã thông thường khác có giá trị từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng;
b) Tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép cá thể, bộ phận cơ thể hoặc sản phẩm của loài động vật nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIB hoặc thuộc Phụ lục II của Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp có giá trị từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng hoặc của động vật hoang dã thông thường khác có giá trị từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng;
c) Phạm tội trong trường hợp động vật, bộ phận cơ thể hoặc sản phẩm của động vật có giá trị dưới mức quy định tại điểm a và điểm b khoản này nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
c) Sử dụng công cụ hoặc phương tiện săn bắt bị cấm;
d) Săn bắt trong khu vực bị cấm hoặc vào thời gian bị cấm;
đ) Buôn bán, vận chuyển qua biên giới;
e) Số lượng động vật nguy cấp, quý hiếm Nhóm IIB hoặc thuộc Phụ lục II của Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp có giá trị từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng; động vật hoang dã thông thường hoặc bộ phận, sản phẩm của các động vật đó trị giá 1.500.000.000 đồng trở lên;
g) Thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
h) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:
a) Số lượng động vật nguy cấp, quý hiếm Nhóm IIB hoặc thuộc Phụ lục II của Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp hoặc bộ phận, sản phẩm của các động vật đó trị giá 2.000.000.000 đồng trở lên;
b) Thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
5. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:
a) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng;
c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 6.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm;
d) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn;
đ) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.
Ở BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 đã có những quy định tiền đề cho việc xác định tội phạm, tuy nhiên những quy định này vẫn còn khá hạn chế, khó áp dụng. Điều luật quy định về bảo vệ động vật hoang dã được đưa vào nhóm tội phạm về môi trường là chưa thật phù hợp.
Điểm tiến bộ của Bộ luật hình sự năm 2015 là bổ sung nhóm động vật hoang dã được bảo vệ theo Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIB hoặc Phụ lục II Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã (CITES), đây là sự bổ sung cần thiết trước thực trạng hàng trăm cá thể tê tê vàng và Tê tê Java của Việt Nam vào “thời điểm trước năm 2014, hai loài này chỉ được liệt kê tại nhóm IIB thuộc Nghị định 32/2006/NĐ-CP và không được liệt kê trong nhóm “ưu tiên bảo vệ” nên các vi phạm liên quan đến Tê tê vàng và Tê tê Java trong mọi trường hợp chỉ bị xử phạt hành chính. Đáng chú ý là nhiều vụ buôn bán tê tê có số lượng lên đến hàng chục tấn nhưng tất cả đều không bị khởi tố, thậm chí tang vật tê tê còn được các cơ quan chức năng đem bán đấu giá”[1], đã làm cho chủng loài tê tê rơi vào nhóm ưu tiên bảo vệ.
Điều 234 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017 đã có những quy định cụ thể hơn, khung hình phạt cụ thể tương ứng với từng nhóm động vật hoang dã. Điều này không chỉ thể hiện sự tiến bộ trong nền lập pháp mà còn tạo điều kiện cho những cá nhân, cơ quan thực thi pháp luật dễ dàng hơn để đưa những quy định này áp dụng để xử lý những hành vi vi phạm.Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2017 cũng có những sửa đổi theo hướng:
Hạ mức giá trị phải chịu trách nhiệm hình sự:
+ Từ 300.000.000 đồng (điểm a, Khoản 1 Điêu 234 BLHS năm 2015) xuống 150.000.000 đồng đối với nhóm động vật, thực vật hoang dã nguy cấp và từ 500.000.000 đồng xuống 300.000.000 đồng đối với nhóm động vật hoang dã khác. Sự điều chỉnh này là cần thiết vì có như thế mới đảm bảo được tính răng đe của pháp luật.
Kéo giãn giữa những khung định tội danh:
Ví dụ: điểm a khoản 1 khung hình phạt bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: ở BLHS năm 2015 là 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng đối với nhóm động vật, thực vật hoang dã nguy cấp, còn đối với quy định ở BLHS năm 2017 thì mức giá trị để xác định có hay không sự vi phạm là từ 150.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Tương tự đối với nhóm động vật hoang dã khác là giảm từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000 đồng xuống 300.000.000 đồng đến dưới 700.000.000 đồng và ở BLHS năm 2017 cũng bổ sung thêm một trường hợp mà BLHS năm 2015 không có chính là thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng.
Các giá trị này cũng thay đổi tương tự ở điểm b, Khoản 2
Thực tế hiện nay, những loài động thực vật hoang dã đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, bảo vệ chúng là bảo vệ sự đa dạng sinh học của tự nhiên, bảo tồn các giá trị quý về dược liệu, gen, giống,… Tuy nhiên với những giá trị của mình, động vật hoang dã đang bị con người săn bắt quá mức, các lô hàng lậu liên quan đến động vật hoang dã, bộ phận của động vật hoang dã vẫn hằng ngày được các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin, vi phạm nhiều, xử lý nhẹ và cần có những biện pháp kiên quyết. Đây không chỉ là một vấn đề riêng của Việt Nam mà còn là vấn đề chung của toàn nhân loại. Xét trong bối cảnh luật pháp luật Việt Nam hiện hành, những quy định về quản lý bảo vệ động vật hoang dã là đáng được ghi nhận, tuy nhiên người nghiên cứu vẫn nhận thấy một số điểm không hợp lý đối với quy định này:
Thứ nhất, việc đặt quy định tội xâm phạm về quản lý bảo vệ động vật hoang dã vào nhóm các tội phạm khác xâm phạm trật tự kinh tế là không phù hợp, với các lý do sau đây: Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm là tội xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm, xâm phạm nghiêm trọng đến môi trường sinh thái, gây ra những hậu quả nghiêm trọng khác cho đời sống xã hội. suy cho cùng quan hệ pháp luật được bảo vệ là chế độ quản lý của nhà nước về bảo vệ động vật hoang dã, đối tương được bảo vệ là động vật hoang dã, chứ không phải là quản lý nhà nước về trật tự kinh tế. Không thể đưa vào tình tiết thu lợi bất chính rồi sắp xếp cho điều luật này nhằm trong nhóm tội phạm về kinh tế là hợp lý. Theo quan điểm của người viết, tội phạm này vẫn là tội phạm về môi trường.
Thứ hai, các định khung mới xuất hiện như lợi dụng chức vụ, quyền hạn, lợi dụng danh nghĩa, cơ quan tổ chức,vận chuyển, buôn bán qua biên giới nếu đưa vào áp dụng có thể gặp nhiều vướng mắc cũng như áp dụng không thống nhất. Đối với quy định hiện hành tương ứng với Điều 190 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009, thì quy định này được hướng dẫn tại Điểm 4.4 Điều 4 Thông tư liên tịch 19/2007/TTLT-BNN-BTP-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 08/03/2007 hướng dẫn áp dụng Bộ luật hình sự về các tội phạm trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn- Bộ Tư pháp- Bộ Công An- Viện kiểm sát Nhân dân Tối cao- Tòa án Nhân dân Tối cao ban hành. Văn bản này hướng dẫn chi tiết cho BLHS năm 1999, do đó thiết nghĩ trong thời gian tới khi BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 có hiệu lực, các nhà làm luật cần cân nhắc ban hành một văn bản mới hơn thay thế cho thông tư liên tịch số 19/2007/TTLT-BNN-BTP-BCA-VKSNDTC-TANDTC đồng thời bổ sung thêm những nội dung về định khung mới chưa được giải thích nhằm tạo ra cách hiểu thống nhất và chính xác, từ đó đảm bảo những quy định của pháp luật về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã thực sự đi vào cuộc sống.
Thứ ba, BLHS năm 2017 lại bỏ quên hành vi chế biến động vật hoang dã trái phép:
Trong quy định tại điều 234 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đã nêu ra được các hành vi tàng trữ, vẫn chuyển, mua bán. Rõ ràng xét về chuỗi logic về tính chất hành vi tàng trữ, vẫn chuyển, buôn bán, chế biến đều là những hành vi gắn liền với nhau, mức độ nguy hiểm như nhau. Tuy nhiên hành vi tàng trữ, vẫn chuyển, buôn bán trái phép bộ phận cơ thể hoặc sản phẩm của động vật thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIB hoặc Phụ lục II Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự, còn hành vi chế biến trái phép lại bị BLHS bỏ ngỏ!
“Cuối năm 2014, Cục Cảnh sát Phòng chống tội phạm về môi trường, Bộ Công An và Công an tỉnh Khánh Hòa phát hiện cơ sở sản xuất đồ mỹ nghệ tại xã Phước Đồng, Thành phố Nha Trang lưu giữ trái phép hơn 10 tấn xác rùa biển quý hiếm tại 6 nhà kho. Tuy nhiên, phải 8 tháng sau vụ việc mới bị khởi tố vì lực lượng chức năng phải làm rõ mục đích buôn bán của hành vi “lưu giữ/tàng trữ và chế tác” rùa biển trước khi khởi tố vụ án. Nếu Điều 190 Bộ luật Hình sự có quy định về hành vi “lưu giữ/tàng trữ và chế biến/chế tác” động vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm thì việc khởi tố và xử lý vụ án đã có thể kết thúc nhanh hơn”./.
[1] Bùi Thị Hà, Nguy cơ bỏ lọt tội phạm về động vật hoang dã, Bản tin chính sách, trung tâm con người và thiên nhiên, số 19, Qúy III-2015
CHUYÊN ĐỀ 5
TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA CÁC TỘI PHẠM KINH TẾ Ở NƯỚC TA
Hiện nay, pháp luật hình sự việt nam chưa có quy định cụ thể về khái niệm tội phạm kinh tế.
Tội phạm kinh tế theo quan điểm của một số nhà luật học Việt Nam
Theo TS. Trần Văn Độ: Tội phạm kinh tế là các hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của nhà nước[1].
Theo PGS.TS. Phạm Hồng Hải: Tội phạm kinh tế là các hành vi gây nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện xâm phạm tới các quan hệ xã hội liên quan tới quá trình xây dựng cải tạo và phát triển quản lý kinh tế nền kinh tế quốc dân[2].
Trong luận án tiến sĩ luật học “Hoạt động phòng ngừa tội phạm kinh tế của lực lượng Cảnh sát kinh tế” bảo vệ năm 2003 tại Học viện Cảnh sát nhân dân - Bộ Công an, Tiến sĩ Nguyễn Phong Hòa quan niệm “Tội phạm kinh tế là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự; do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, trực tiếp hoặc gián tiếp xâm phạm sở hữu của các thành phần kinh tế; xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; trật tự quản lý trong sản xuất, kinh doanh, lao động, phúc lợi xã hội, bảo hiểm, đất đai, môi trường, an toàn công cộng, trật tự công cộng”.
Hiện nay, tội phạm kinh tế được hiểu theo 02 nghĩa:
+ Nghĩa hẹp: tội phạm kinh tế chỉ bao gồm các tội trong chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
+ Nghĩa rộng tội phạm kinh tế không chỉ bao gồm các tội trong chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế mà còn một số tội phạm khác có liên quan đến tài sản như tội phạm xâm phạm sở hữu, tội phạm về chức vụ,…
Như vậy, từ những phân tích như trên có thể hiểu rằng: “Tội phạm kinh tế là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các chế độ, chính sách quản lý kinh tế của nhà nước, gây thiệt hại cho nền kinh tế quốc dân, lợi ích hợp pháp của tổ chức và của công dân”.
- Đa số các tội phạm kinh tế khi phát hiện đã diển ra một thời gian khá dài, tỷ lệ tội phạm ẩn trong tội phạm kinh tế thường rất cao, dễ nhầm lẫn với các vi phạm hành chính, vi phạm dân sự.
- Các tội phạm tham nhũng có chủ thể đặc biệt là những người có trách nhiệm trực tiếp hoặc gián tiếp giải quyết, quản lý các giá trị vật chất; có thẩm quyền quyết định trong quản lý kinh tế xã hội, có kinh nghiệm, có trình độ nghiệp vụ chuyên môn; có quan hệ rộng rãi, có chỗ dựa vững chắc và tính hợp lý về nghề nghiệp nên phương thức, thủ đoạn cũng như điều kiện, hoàn cảnh hoạt động hết sức thuận lợi, khả năng ngụy trang, che giấu hành vi phạm tội kín đáo hơn, có khả năng đối phó lại hoạt động điều tra.
- Tội phạm kinh tế thường lợi dụng các tuyến giao thông (các tuyến đường sắt, tuyến đường thủy, tuyến đường bộ, tuyến đường hàng không), bưu điện và tuyến đường ống (xăng dầu...) để hoạt động.
- Tội phạm kinh tế lợi dụng cung, cầu hợp pháp và bất hợp pháp để chuyển hàng cấm, hàng giả...
1.1.1. Tình hình tội phạm kinh tế từ 1990 đến 2001
Theo số liệu thống kê của Bộ Công an từ 1990 đến năm 2001 đã phát hiện 190.664 vụ phạm tội kinh tế thu hồi gần 21.000 tỷ đồng (VNĐ). Bao gồm: tham nhũng gắn với buôn lậu, trốn thuế, tập trung trên các lĩnh vực ngân hàng, đầu tư xây dựng cơ bản, xây dựng công trình giao thông vận tải, hợp tác đầu tư. Tội phạm lừa đảo tiếp tục gia tăng và diễn ra ở nhiều nơi, có những hành vi lừa đảo ngang nhiên lộng hành nhiều năm nhưng không bị xử lý như: lừa đảo trong tổ chức đi lao động nước ngoài, lừa đảo trong giới thiệu việc làm, môi giới nhà đất... Nổi lên là tội phạm lừa đảo xuất khẩu lao động với nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, đánh vào điểm yếu của người lao động là nhu cầu về việc làm. Nhiều chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước bị lợi dụng để tham ô, chiếm đoạt tài sản như chính sách “hàng đổi hàng”, chính sách “thuế giá trị gia tăng” (VAT)... Trong việc thực hiện các dự án thường xảy ra tiêu cực, tham nhũng trong tất cả các công đoạn: chạy và duyệt dự án, đấu thầu thi công, giám sát, kiểm tra, quyết toán... Trong quản lý và sử dụng vốn cũng không chặt chẽ nên dẫn đến tình trạng gian dối và nhập nhằng đơn giá, đến bàn giao giải phóng mặt bằng. Trong các doanh nghiệp cổ phần xảy ra tình trạng định giá không sát với giá trị tài sản, thông qua việc ký hợp đồng khống, thanh toán khống để rút tiền chia nhau... Tình trạng lợi dụng chủ chương của Chính phủ trong việc thực hiện các chương trình khuyến khích, phát triển kinh tế miền núi, vùng sâu, vùng xa với các điều kiện ưu đãi, một số cán bộ thoái hóa biến chất trong các cơ quan được giao làm chủ dự án, chủ đầu tư đã cấu kết với một số cán bộ cấp huyện, xã nơi thực hiện chương trình để tham ô. Hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại diễn biến phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi, đa dạng hơn.
1.1.2. Tình hình tội phạm kinh tế từ 2012 đến 2016
Tội phạm về trật tự quản lý kinh tế: Tăng 1.037 vụ=11,83 %, tập trung vào các hành vi chiếm đoạt tài sản của ngân hàng, tín dụng đen; sử dụng công nghệ cao; dùng thẻ ATM, thẻ thanh toán giả để rút tiền... tội buôn lậu, mua bán trái phép ngoại tệ, buộn lậu vàng qua biên giới…
Tội phạm tham nhũng: Phát hiện 803 vụ (tăng 555 vụ=223,79%) với 1.719 đối tượng, tăng 1.193 đối tượng (226,81%); khởi tố điều tra 270 vụ (tăng 22,17%) với 554 bị can (tăng 26,2 %).
2.1. Nhóm các nguyên nhân và điều kiện về kinh tế - xã hội
Những điều kiện kinh tế xã hội thường tác động đến các tội phạm đó dưới các hình thức sau đây:
- Một là, những khó khăn về kinh tế, yếu kém trong quản lý kinh tế cũng như tác động mặt trái của kinh tế thị trường đã và đang tác động trực tiếp vào đời sống của mỗi gia đình, mỗi công dân, mỗi cán bộ, đảng viên làm suy giảm về mức sống và làm tăng ham muốn về vật chất cán bộ, đảng viên. Một số cán bộ đảng viên bị biến chất, sa sút tinh thần, tha hóa cùng với việc lỏng lẻo trong công tác giáo dục dẫn đến những người này có hành vi bòn rút, chiếm đoạt của công, buôn lậu...
- Hai là, những khó khăn về kinh tế, những thay đổi trong đời sống xã hội do ảnh hưởng của mặt trái nền kinh tế thị trường dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo, sự phân tầng xã hội kéo theo đó là thất nghiệp thiếu việc làm, lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội chưa đáp ứng nhu cầu thiết yếu. Mặt khác, bản thân nhiều chính sách xã hội hiện hành còn chứa đựng nhiều bất hợp lý, thiếu chặt chẽ, sơ hở, khi vận hành tùy tiện thiếu liểm tra. Đó là môi trường thuận lợi cho sự sinh sôi của tội phạm nói chung và tội phạm kinh tế nói riêng.
- Ba là, những biến động phức tạp về kinh tế xã hội như khủng hoảng kinh tế khu vực, khủng hoảng hàng hóa, nông sản ứ đọng, sản xuất kinh doanh có lúc có nơi còn trì trệ, kinh doanh chộp giật, lừa đảo, thiếu kinh nghiệm trong kinh doanh sản xuất cùng với những thiên tai, bão lụt hạn hán đã tác động xấu đến quá trình quản lý của Nhà nước, tác động sâu rộng đến nền kinh tế chung của thế giới. Từ đó, dễ tạo ra môi trường cạnh tranh không lành mạnh, cùng với các cán bộ kinh tế còn chưa được đào tạo đầy đủ thì môi trường kinh tế hỗn tạp, cạnh tranh không lành mạnh sẽ là điều kiện phát sinh tiêu cực và tội phạm kinh tế.
2.2. Nhóm các nguyên nhân và điều kiện về cơ chế quản lý
- Thực tế cho thấy có những nguyên nhân của tội phạm kinh tế và nhiều hành vi vi phạm pháp luật khác nằm ngay trong cơ chế quản lý, chúng có nguy cơ gia tăng cùng với những sơ hở trong cơ chế quản lý mới. Nghiên cứu về các tội phạm kinh tế chúng ta thấy bọn tội phạm triệt để lợi dụng những kẽ hở trong chính sách và pháp luật, trong cách định hướng, bước đi, biện pháp cụ thể của quá trình chuyển đổi, của sự vận hành cơ chế mới.
- Cơ chế thị trường có mặt tích cực là kích thích phát triển sản xuất, nhưng cũng có mặt trái cần phải khắc phục. Đó là sự cạnh tranh vô chính phủ, lừa lọc vì quy luật kích thích của lợi nhuận, là sự giành quyền và triệt tiêu đối thủ, Nhà nước còn nhiều lúng túng trong quản lý cơ chế thị trường. Đây là những điều kiện cho tội phạm kinh tế phát triển. Do đó bất kỳ sự yếu kém, quản lý lỏng lẽo của quản lý nhà nước sẽ tạo ra sự rối ren, từ đó dẫn đến các hành vi tiêu cực và tội phạm kinh tế phát triển. Đặc biệt là những sơ hở trong các khâu: chính sách, pháp luật, các công cụ quản lý tài chính - tiền tệ.
- Có những văn bản, quy định của cơ quan lãnh đạo gây khó khăn cho việc giám sát các hoạt động phạm tội kinh tế. Cụ thể như Chỉ thị 15-CT/TW của Bộ chính trị đang là vướng mắc cho lực lượng Công an nhân dân trong việc giám sát các cán bộ đảng viên về hoạt động chống tham nhũng.
2.3. Nhóm các nguyên nhân và điêu kiện về tâm lý - xã hội
Thực tế trong thời gian qua nguyên nhân của tình trạng phạm tội về kinh tế không phải chỉ do nghèo đói, khó khăn của người phạm tội. Phần lớn những người phạm tội về kinh tế có cuộc sống và hoàn cảnh kinh tế khá giả, cao hơn nhiều so với cuộc sống bình thường của xã hội. Yếu tố tâm lý tiêu cực vụ lợi mà biểu hiện cụ thể của nó là tính cá nhân, nhu cầu hưởng thụ, sự tham lam, tính ích kỷ, khát vọng làm giàu vô điều kiện, ý thức coi thường pháp luật, là cơ sở dẫn đến hành vi phạm tội. Đây là nguyên nhân trực tiếp của các tội phạm kinh tế. Do đó, cần chú ý đến các yếu tố tiêu cực bên ngoài tác động đến ý thức của con người về nhu cầu, cách thỏa mãn nhu cầu. Đây là vấn đề rất quan trọng trong việc tính toán công tác phòng ngừa tội phạm kinh tế.
2.4. Nhóm các nguyên nhân và điều kiện về công tác tổ chức cán bộ
Trong đội ngũ cán bộ đảng viên đã có một bộ phận có tư tưởng tiêu cực, suy thoái về phẩm chất đạo đức. Nghiên cứu nhân thân của tội phạm kinh tế chúng ta thấy có nhiều người mặc dù trước đó có nhân thân xấu nhưng vẫn được bổ nhiệm, đề bạt vào các chức vụ quan trọng có liên quan đến tài sản. Trong số người phạm tội, có nhiều người giữ chức vụ giám đốc, phó giám đốc trong các doanh nghiệp nhưng chưa qua lớp đào tạo nào về quản lý nhà nước, không có năng lực và trình độ quản lý, thiếu kiến thức về quản lý kinh tế, chưa được rèn luyện về phẩm chất đạo đức cần thiết của người lãnh đạo. Chính những yếu kém trong công tác tổ chức cán bộ là một trong những nguyên nhân làm phát sinh tội phạm kinh tế.
Những khuyết điểm, nhược điểm đã nêu trên về công tác tổ chức cán bộ đang tồn tại trong các cơ quan nhà nước chính là môi trường là cho số tội phạm kinh tế dễ phát sinh và phát triển.
2.5. Nhóm các nguyên nhân, điều kiện liên quan đến hạn chế của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc phát hiện và xử lý vi phạm và tội phạm kinh tế
- Hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong đấu tranh chống tội phạm nói chung và tội phạm kinh tế nói riêng đã có nhiều cố gắng. Tuy nhiên vẫn còn nhiều yếu kém chưa thể khắc phục, đặc biệt là yếu kém trong công tác phát hiện, xử lý vi phạm và tội phạm cũng là nguyên nhân và điều kiện của tội phạm kinh tế phát triển. Thực trạng cho thấy các vụ án kinh tế được phát hiện khi đã xảy ra từ một năm trở lên. Trong nhiều vụ án bọn tội phạm hoạt động kéo dài, gây hậu quả nghiêm trọng mới bị phát hiện.
- Bên cạnh đó tình trạng xử lý tội phạm còn thiếu nghiêm minh, chưa công bằng, chưa thống nhất theo yêu cầu của pháp luật và nhiệm vụ chính trị. Sự hạn chế và thiếu nhạy bén trong công tác phát hiện và sử lý tội phạm kinh tế làm cho bọn tội phạm xem thường pháp luật, làm cho pháp luật thiếu sức răng đe, giáo dục phòng ngừa và trừng trị. Đó cũng là nguyên nhân cho tình trạng tội phạm kinh tế có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp.
- Việc phối hợp hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật để phát hiện và xử lý tội phạm còn chưa đồng bộ, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của các biện pháp pháp luật. Tình trạng hạn chế về năng lực nghiệp vụ của cán bộ bảo vệ pháp luật, sự lỏng lẻo, đùng đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật với cơ quan hành pháp, cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức sản xuất kinh doanh trong việc phát hiện, xử lý tội phạm kinh tế. Đây là những nguyên nhân cơ bản và điều kiện cơ bản để tội phạm kinh tế ở nước ta phát sinh.
- Nhìn chung tình hình tội phạm kinh tế có chiều hướng gia tăng với tính chất ngày càng tinh vi về thủ đoạn, vừa lớn về quy mô, liên kết theo kiểu ổ nhóm, phạm tội có tổ chức, có nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Nhưng còn nguyên nhân chính là do nhận thức của lãnh đạo các cấp, các ngành còn chưa thấy hết tính chấy nguy hiểm của loại tội phạm này, nói chưa đi đôi với làm từ đó chưa tiến hành đồng bộ đầy đủ các biện pháp phòng ngừa tội phạm kinh tế.
Dự báo trong những năm tới tình hình kinh tế xã hội tiếp tục có những diễn biến phức tạp, tội phạm kinh tế tiếp tục gia tăng, tính chất phức tạp, gây hậu quả nghiêm trọng tập trung ở các ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm như xây dựng xây dựng công trình giao thông, lĩnh vực ngân hàng, tài chính, thuế, xuất nhập khẩu, tài nguyên khoáng sản,...
Tham nhũng ngày càng có quy mô lớn, tính tổ chức cao, bắt rễ sâu trong các cơ quan nhà nước, nhất là cơ quan có chức năng hoạch định chính sách kinh tế. Tham nhũng trong xây dựng cơ bản nổi lên tình trạng thông đồng móc ngoặc giữa các bên trong đấu thầu, khai sai, khai khống khối lượng công trình để tham ô... (hiện tại nổi lên ở các công trình BOT).
Tham nhũng trong lĩnh vực nông nghiệp - nông thôn cần chú ý đến việc thực hiện các chương trình kinh tế xã hội như xây dựng nông thôn mới, xóa đói giảm nghèo, xuất khẩu nông sản, xây dựng công trình phục vụ nông nghiệp, giải phóng mặt bằng, cấp đất, sử dụng đất sai mục đích.
Trong lĩnh vực ngân hàng cần chú ý đến tình trạng cố ý làm trái, thông đồng, móc nối giữa cán bộ ngân hàng với các doanh nghiệp để ký kết các hợp đồng kinh tế, vay tiền ngân hàng sử dụng sai mục đích làm cho tình hình dự nợ ở các ngân hàng thương mại lâm vào tình trạng thất thoát vốn, các hoạt động lợi dụng các chính sách ưu đãi của Nhà nước để vay vốn. (Ví dụ như: vụ án Bầu Kiên, Huyền Như,…)
Những năm tới hoạt động buôn lậu vẫn diễn biến hết sức phức tạp trên tất cả các tuyến đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không. Buôn lậu gắn chặt với tham nhũng, xen kẽ với việc trốn thuế và gian lận thương mại và hoạt động buôn lậu có tổ chức tiếp tục phát triển. (Ví dụ: thuốc lá điếu nhập lậu, vàng nhập lậu, linh kiện điện tử nhập lậu,…)
Tình trạng sản xuất buôn bán hàng giả vẫn tiếp tục có những diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng với nhiều chủng loại như thực phẩm, rượu, bia, nước giải khát, bánh kẹo, thuốc tân dược, thuốc thú y, phân bón, thuốc trừ sâu...
Trong quá trình thực hiện luật thuế VAT đã xuất hiện những phương thức thủ đoạn trốn thuế tinh vi như xuất hóa đơn khống tạo điều kiện cho các đơn vị khác trốn thuế, chiếm đoạt tiền thuế.
Một số tội phạm kinh tế khác như các tội phạm liên quan đến công nghệ cao, các vi phạm pháp luật về hoạt động chứng khoán, kinh doanh đa cấp, mua bán bất động sản, môi trường, sở hữu trí tuệ,... có thủ đoạn ngày càng tinh vi và phức tạp hơn.
2.1.1. Tăng cường công tác tham mưu cho Đảng, Nhà nước trong phòng ngừa tội phạm kinh tế
Để thực hiện chức năng tham mưu trong phòng ngừa tội phạm, lực lượng Công an nhân dân phải tham gia đề xuất bổ sung, sửa đổi, xây dựng mới các văn bản quy phạm pháp luật; chủ trương chính sách trong quản lý kinh tế, quản lý an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội của Đảng, Nhà nước và Ngành Công an. Làm tốt công tác tham mưu cho các cấp ủy Đảng, chính quyền thông qua việc hướng dẫn thực hiện kế hoạch, nội dung các hoạt động phòng ngừa tội phạm kinh tế một cách có hệ thống và toàn diện trong các cơ quan nhà nước, cơ quan quản lý kinh tế, các doanh nghiệp. Trong các kế hoạch phòng ngừa tội phạm kinh tế phải kết hợp lồng ghép việc thực hiện các nghị quyết của Đảng về các lĩnh vực kinh tế, xã hội với việc động viên, khuyến khích các cơ quan, tổ chức thực hiện tốt, chấn chỉnh phát hiện những sai phạm yếu kém trong phòng ngừa tội phạm kinh tế. Phát huy vai trò của quần chúng nhân dân, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng nhân dân, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng nhân dân, động viên nhân dân tham gia tích cực vào các hoạt động phòng ngừa tội phạm kinh tế...
Chú trọng việc tổng kết, phân tích đánh giá tình hình tội phạm kinh tế, phát hiện những sơ hở thiếu sót trong quản lý kinh tế, xã hội và phòng ngừa tội phạm kinh tế. Khi phát hiện sơ hở thiếu sót phải mạnh dạn, kịp thời đề xuất biện pháp đấu tranh hiệu quả với tội phạm kinh tế. Công tác tham mưu của lực lượng Công an nhân dân còn thể hiện trong việc xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh, củng cố các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức công đoàn để động viên giáo dục các thành viên của tổ chức này tự giác tham gia vào các hoạt động phòng ngừa tội phạm, bảo vệ quyền lợi người lao động, bảo vệ tài sản, thực hiện đúng đắn các quy định về quản lý kinh tế, tài chính, phát hiện và tố giác tội phạm kinh tế.
2.1.2 Tăng cường tổ chức hướng dẫn và thúc đẩy các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và doanh nghiệp trong phòng ngừa tội phạm kinh tế
Lực lượng Công an nhân dân cần chủ động phát hiện những sơ hở sai sót trong quản lý kinh tế, xã hội của các cơ quan nhà nước, nhất là của những người có chức vụ, quyền hạn, đồng thời đưa ra những đề nghị khắc phục có tính chất thuyết phục, kịp thời ngăn chặn những hiện tượng phạm tội. Để phát huy vai trò là chủ thể trực tiếp, vừa phối hợp, hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động phòng ngừa của các chủ thể đó, lực lượng Công an nhân dân cần phối hợp, thúc đẩy, hỗ trợ qua các hình thức: tăng cường hướng dẫn các biện pháp quản lý con người của cơ sở, tổ chức, đơn vị đó; tham gia xây dựng các nội quy, quy định chặt chẽ về các hoạt động sản xuất, học tập lao động bảo vệ các nguyên tắc trong quản lý kinh tế của cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp đó; xây dựng các kế hoạch, biện pháp để khắc phục những thiếu sót trong quản lý con người, tổ chức sản xuất, học tập; kịp thời phát hiện các hiện tượng tiêu cực có khả năng dẫn đến tình trạng phạm tội; phát huy các sáng kiến phòng ngừa tội phạm kinh tế... phối hợp, hỗ trợ, thúc đẩy các cơ quan quản lý hành chính, kinh tế nhà nước làm tốt vai trò quan trọng, chịu trách nhiệm chính trong phòng ngừa tội phạm kinh tế nhất là các loại tội phạm xâm phạm tài sản Nhà nước, tội phạm có tính chất tham nhũng, tội phạm trong lĩnh vực quản lý, sản xuất kinh doanh của mình.
Tăng cường phổ biến cho nhân dân về thủ đoạn của bọn tội phạm kinh tế cũng như các thiếu sót trong hoạt động quản lý kinh tế mà bọn tội phạm thường hay lợi dụng để hoạt động phạm tội, để họ tự giác tham gia vào các hoạt động, quá trình phòng ngừa tội phạm ở cơ quan, đơn vị mình, kịp thời phát hiện tội phạm, ngăn chặn tội phạm, cảm hóa các phần tử phạm tội.
2.2.1. Tội phạm tham nhũng
Trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu hiện nay các hành vi tham nhũng, lợi dụng chức quyền để làm giàu bất chính đang xảy ra phổ biến, nghiêm trọng. Để đấu tranh chống tội phạm tham nhũng có hiệu quả cần nâng cao vai trò của các cơ quan chuyên trách về công tác phòng chống các tội phạm về chức vụ và tham nhũng. Cần có sự phối hợp thật tốt các lực lượng trong và ngoài ngành Công an trong phòng ngừa và ngăn chặn tội phạm về tham nhũng, không gây phiền hà, cản trở nhau trong hoạt động phòng chống tội phạm tham nhũng.
2.2.2. Các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Nhóm tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế đã và đang cùng với tham nhũng là vấn đề quốc nạn. Giữa tham nhũng và buôn lậu có sự quan hệ chặt chẽ với nhau, bọn tham nhũng che chở, tạo điều kiện cho hoạt động buôn lậu ngược lại buôn lậu lại nuôi dưỡng tham nhũng. Để phòng ngừa tội phạm buôn lậu có hiệu quả lực lượng Công an nhân dân cần tiến hành làm tốt công tác tham mưu cho các chính sách kinh tế về quản lý xuất nhập khẩu của Nhà nước, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chống buôn lậu và điều tra, xử lý tội phạm buôn lậu với đấu tranh chống tham nhũng làm trong sạch nội bộ cơ quan Đảng, Nhà nước.
2.2.3. Các tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả
Tình trạng tàng trữ, vận chuyển, tiêu thụ tiền giả hiện nay đang gây ảnh hưởng lớn đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền tài chính quốc gia. Để phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh chống tội phạm tàng trữ, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả cần phối hợp chặt chẽ với các ngành có liên quan phát hiện và xử lý kịp thời những trường hợp người nước ngoài, khách hàng đưa tiền giả, séc giả, công trái giả vào ngân hàng hoặc sử dụng trên thị trường. Kết hợp công tác nghiệp vụ của Công an nhân dân với công tác thanh tra, kiểm tra của ngành ngân hàng để phát hiện, xử lý kịp thời các tội phạm làm, tàng trữ, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến về phương thức, thủ đoạn của tội phạm làm, tàng trữ, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả trong nhân dân để phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn loại tội phạm này.
2.2.4. Các tội phạm kinh tế trên lĩnh vực thuế
Để làm tốt công tác phòng chống tội phạm kinh tế trong lĩnh vực thuế, nhất là thuế VAT cần thường xuyên sơ kết, tổng kết để nêu được những sơ hở, bất cập của những văn bản quy phạm pháp luật quy định về thuế VAT như cơ chế thanh toán, quy định về thủ tục hoàn thuế, sơ hở trong kiểm soát hàng xuất khẩu ở các cửa khẩu. Nghiên cứu đề xuất sửa đổi bổ sung kịp thời những quy định của luật thuế để bịt kín những sơ hở mà bọn tội phạm lợi dụng để chiếm đoạt tiền thuế. Sơ hở trong quản lý kinh doanh, quản lý hóa đơn, kiểm tra kê khai hoàn thuế, những vi phạm của các cán bộ ngành chức năng kiên quan đến việc thực hiện thuế VAT.
Thông qua các cơ quan chức năng đặc biệt là cơ quan thuế để tăng cường kiểm tra, đối chiếu phát hiện những trường hợp có dấu hiệu nghi vấn trong việc lập hồ sơ hoàn thuế khống, nhất là đối với những trường hợp đã cho phép hoàn thuế trước kiểm tra sau, để phát hiện sơ hở chiếm đoạt tiền thuế. Đối với đối tượng giải thể hoặc không kinh doanh cần kịp thời quyết toán số hóa đơn đã mua, thu hồi hóa đơn chưa sử dụng và xử lý nghiêm các vi phạm tổn thất hóa đơn.
2.2.5. Các tội sản xuất, buôn bán hàng giả
Đây là đối tượng quan trọng cần hướng tới trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm kinh tế thời gian tới. Để phòng ngừa tội phạm này cần tiếp tục bổ sung và cụ thể hóa hệ thống pháp lý trong việc xử lý những tranh chấp về sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp. Cần có sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng chống sản xuất buôn bán hàng giả như công an, quản lý thị trường, cơ quan quản lý về sở hữu công nghiệp, thanh tra các Bộ, ngành Y tế, Nông nghiệp, Công nghiệp, Hải quan. Cần tuyên truyền để nhân dân hiểu rõ nguy hại của hàng giả từ đó phối hợp với nhân dân để kịp thời phát hiện các tụ điểm sản xuất buôn bán hàng giả. Thông qua công tác phòng ngừa, đấu tranh kịp thời phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong quy định về cơ chế, chính sách đã ban hành để đề xuất sửa đổi bổ sung, không để tội phạm lợi dụng hoạt động. Cần có quy định của Nhà nước về danh mục hàng hóa đảm bảo chất lượng để mọi người dễ phân biệt và các có quan nhà nước có cơ sở đấu tranh phòng ngừa.
2.2.6. Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Cần tăng cường tuyên truyền phổ biến đến các cá nhân, tổ chức kinh doanh hiểu biết về quyền sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu công nghiệp; tôn trọng và thực hiện tốt các quy định về quyền sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu công nghiệp. Tăng cường tham mưu xây dựng hoàn thiện các quy định của pháp luật trong xét xử, giải quyết tranh chấp về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ,quyền sở hữu công nghiệp. khi phát hiện các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp phải áp dụng các biện pháp ngăn chặn, kịp thời thông báo cho bên vi phạm biết chủ sở hữu đối tượng đang bị sử dụng trái phép và yêu cầu đình chỉ hành vi vi phạm.
Tăng cường biện pháp vận động quần chúng, kết hợp xây dựng các tổ chức quần chúng ở cơ sở, cơ quan, xí nghiệp trong phòng chống tội phạm kinh tế
Sử dụng hợp lý các biện pháp xử lý vi phạm hành chính, thanh tra, kiểm tra trong phòng ngừa các vi phạm pháp luật về kinh tế. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Công an nhân dân, Quản lý thị trường, Hải quan, Thanh tra các ngành, Cảnh sát biển, Bộ đội biên phòng trên cả hai khía cạnh là cung cấp cho các ngành những thông tin về đối tượng phạm tội, đồng thời sử dụng hiệu quả chức năng kiểm soát công khai của các ngành trong phòng chống tội phạm kinh tế. Tránh tình trạng hành chính hóa các hành vi phạm tội, xử lý hành chính để chia thưởng, bao che giảm nhẹ các hành vi phạm tội kinh tế.
Chú trọng đúng mức các hoạt động tố tụng hình sự đảm bảo thực hiện có hiệu quả kế hoạch phòng ngừa tội phạm kinh tế
Chú trọng bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chính trị, kiến thức nghiệp vụ pháp luật kinh tế của lực lượng Công an nhân dân.
Với đặc điểm tính chất trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm kinh tế, do đó trước tiên lực lượng Công an nhân dân phải là những người có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, liêm khiết. Đồng thời phải là người giỏi về nghiệp vụ, nắm chắc kiến thức về hoạt động thanh tra, kiểm tra và hoạt động tố tụng hình sự.
Nghiên cứu nâng cao chức năng của lực lượng Cảnh sát kinh tế để phù hợp với tình hình và yêu cầu phòng ngừa tội phạm kinh tế trong giai đoạn hiện nay.
Các loại tội phạm kinh tế hiện nay đang hoạt động ngày càng tinh vi và có sự móc nối với các cán bộ cơ quan nhà nước. Đặc biệt là đối với tội phạm tham nhũng là những đối tượng có quyền lực lớn, lực lượng Cảnh sát kinh tế phải chịu sự chỉ đạo chiều ngang nên rất khó để đấu tranh. Do đó cần có cơ chế để lực lượng Cảnh sát kinh tế độc lập trong phòng chống loại tội phạm này. Tuy nhiên cũng cần có một cơ chế giám sát để lực lượng Cảnh sát kinh tế không rơi vào tình trạng lạm quyền.
[1] Dương Tuyết Miên: Tội phạm kinh tế và đấu tranh phòng chống tội phạm này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, tạp chí luật học số 03/2003 trường Đại học Luật Hà Nội, 2003, tr 61.
[2] Dương Tuyết Miên: Tội phạm kinh tế và đấu tranh phòng chống tội phạm này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, tạp chí luật học số 03/2003 trường Đại học Luật Hà Nội, 2003, tr 62.